Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012

Tản mạn về đ/c Bùi Tín

Bùi Tín thuộc thế hệ cha tôi. Khi tôi lớn lên đã nghe danh ông rồi. Một số bài chính luận ông viết trên báo Nhân dân vẫn thường được Đài tiếng nói VN phát lại với giọng văn nghị luận sắc sảo, hào hùng. Rồi một ngày trong năm cuối của thập niên 80, tình cờ bật TV lên, thấy trên VTV  người ta kết tội ông phản bội tổ quốc vì đã tỵ nạn chính trị ở nước ngoài.... Tôi nghe mà biết vậy, vì lúc đó tôi không mấy quan tâm.
Cách đây sáu năm, khi đó tôi đang là phóng viên của VietNamNet, khi bản kiến nghị 5 điểm của tôi được báo chí trong và ngoài nước đưa tin, tôi nhận được E mail của Bùi Tín. Ông nói đại ý : ông đã đọc kỹ bản kiến nghị của tôi và đánh giá rất cao những ý kiến đó, ông cũng đề nghị liên lạc với tôi theo địa chỉ : Lienbat@.... Tôi biết vậy mà không có phản hồi gì, bởi, đang là nhà báo quốc doanh lại liên lạc với một người Việt hải ngoại, từng bị quy kết là thế này thế nọ thì thật không tiện. Không phải vì tôi sợ, nhưng thú thực, tôi không muốn mất thời gian đón tiếp những cuộc thăm viếng không mời từ các cơ quan CA.
Hôm nay nhận được thư của TS Nguyễn Thanh Giang, ông gửi cho tôi bài viết này. Đọc qua thấy nhiều thông tin phong phú về Bùi Tín. Về mặt nghề nghiệp, tôi bày tỏ lòng kính trọng với ông bởi ông là nhà báo giỏi với những bài viết sắc sảo. Về mặt con người tôi chia sẻ với ông, bởi khi tuổi tác đã cao, lại phải sống xa quê hương với bao định kiến. Xin được giới thiệu với bạn đọc bài viết về Bùi Tín.
P.T.H.

- 1 -
 Dường như lời cảnh báo xót xa của cựu ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Ngoại giao nước CHXHCNVN Nguyễn Cơ Thạch: ‘‘Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!’’ cứ còn hắt mãi lên tiếng thở dài ẩn ức trong lòng nhà báo Bùi Tín. Nhiều năm trước, đã hơn một lần tôi được đọc những dòng viết của Bùi Tín về sự kiện này. Gần đây thấy lại càng như gióng lên liên hồi cái điệp khúc trăn trở, hãi hùng đó:
 - Trong bài “Thời kỳ Bắc thuộc mới”: “Cái mốc chuyển từ kẻ thù truyền thống (như được ghi trong Hiến pháp Việt Nam) thành bạn thân thiết là cuộc gặp gỡ bí mật cấp cao Trung - Việt ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, vào 2 ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, theo sáng kiến của đại mưu sĩ Đặng Tiểu Bình. Đại diện cho phía Việt Nam tại cuộc gặp là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười  cố vấn Phạm Văn Đồng, còn phía Trung Quốc là Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
 Có rất ít thông tin chính xác về nội dung thật sự của cuộc gặp này được tiết lộ, nhưng ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Bắc Kinh đến phó hội đối với tương lai của đất nước ta đã không che mắt được ai. Đến nỗi ngoại trưởng Việt Nam lúc bấy giờ, ông Nguyễn Cơ Thạch, người bị gạt ra ngoài rìa của cuộc họp lịch sử này, đã phải than thở: ‘‘Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!”. 
- Trong bài “Bản chất chính quyền Đại Hán: “Tình trạng bi đát này của nhóm lãnh đạo Việt Nam đã kéo dài từ 21 năm nay, khi cả hai chính quyền độc đảng Bắc Kinh và Hà Nội đều run sợ trước sự sụp đổ của bức tường Berlin và nhất là trước sự tan tành của Liên bang Xô viết và phe Xã hội chủ nghĩa, liền bắt tay nhau dù là mới trải qua cuộc «chiến tranh giữa 2 đồng chí thù địch» đầu năm 1979, để hòng cùng nhau trụ lại trước định mệnh đã an bài. Đó là bước ngoặt trong cuộc hội ngộ Việt - Trung ở Thành Đô - Tứ Xuyên cuối năm 1990, mà ông Nguyễn Cơ Thạch phải la hoảng lên là «một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu» để lập tức bị mất chức ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng, bị gạt khỏi chức ủy viên Bộ Chính trị. Thực chất Thành Đô là cái bẫy cực kỳ thâm hiểm mang bản chất Đại Hán mà một loạt kẻ lãnh đạo mù quáng, mất gốc dân tộc Việt đã dại dột chui vào.
Từ đó đẻ ra bao chuyện nhẹ dạ, hớ hênh, tội lỗi với dân với nước. Hai hiệp định bất bình đẳng, mất đất, mất đảo, mất biển, mất tài nguyên, tạo điều kiện cho lao động Trung Quốc tràn vào khắp mọi vùng, độc chiếm các món thầu béo bở nhất, từ mỏ bauxite đến hàng loạt nhà máy điện, giành vị trí lao động phổ thông của người Việt mặc cho luật pháp ngăn cấm. Lực lượng lao động này lập làng Trung Quốc ở Tây Nguyên, làm đường chiến lược, khai thác hàng chục vạn hécta rừng dọc biên giới và đầu nguồn. Đồng thời hàng giá rẻ kém chất lượng, chứa chất độc tràn ngập đất nước ta, đồng Nhân dân tệ bắt đầu khuynh đảo thị trường tài chính ngầm. Tai họa cực kỳ nguy cấp hiển hiện, rình rập khắp nơi”.
- Trong bài “Tình bạn Mỹ-Việt giữa hiểm họa bành trướng": “Cuộc đối thoại thứ 5 sẽ diễn ra ở Hà Nội năm 2012. Trong cuộc đối thoại này đại diện phía Việt Nam là Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (con của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch; ông Thạch từng nhận xét sau cuộc họp Việt - Trung ở Thành Đô cuối năm 1991 rằng «một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu»)”.
 Bùi Tín như cuống quýt lên vì sợ hãi. Bởi vì, theo ông bọn thù địch ngoại bang này còn ghê sợ hơn ngàn lần tất cả những kẻ trước đây ta đã phải đương đầu:
 “Nhóm lãnh đạo Bắc Kinh là những người chưa hề chùn tay trước một thủ đoạn thâm độc nào. Ai có thể độc ác hơn những kẻ dám đem đương kim Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ ra đấu tố hạ nhục trên đường phố? Ai có thể tàn bạo hơn những kẻ mang đương kim Nguyên soái Bành Đức Hoài ra hỏi tội, bắt đội mũ lừa, bắt liếm bát mỳ sợi trong chảo, hành hạ cho đến khi chết không có một người thân vuốt mắt? Ai có thể bất nhân, phản dân tộc hơn những kẻ vui mừng khi đặt 200 tên lửa, rồi nay là 600 tên lửa đạn đạo chĩa thẳng vào đồng bào ruột thịt của mình ở Đài Loan, dọa dẫm không chút hổ thẹn là sẵn sàng dìm trong biển máu cả 23 triệu dân mà họ từng leo lẻo là anh chị em chí thiết, còn là một nguồn đầu tư lớn cho lục địa” (1).
Bản chất lớn nhất của chính quyền Đại Hán là độc đoán bên trong và bành trướng xâm lược bên ngoài. Trong xâm lược bên ngoài, chúng lăm le nuốt chửng mọi nước láng giềng, tự nhận mình là trung tâm của thế giới, không giấu giếm ý đồ lâu dài là làm bá chủ thế giới bằng mọi cách. Chúng thôn tính một phần lớn Mông Cổ, toàn bộ Tân Cương, Tây Tạng, Mãn Châu, tiêu diệt quyền tự do, nền độc lập của các nước này, khẳng định láo xược cái tội cướp nước khác bằng lá cờ ô nhục một sao đỏ lớn nằm trên 4 ngôi sao nhỏ.
Sau khi thực hiện chiến tranh với Liên Xô mà chúng từng coi là người anh Cả trong phe Xã hội chủ nghĩa, với Ấn Độ là nước dân chủ lớn nhất ở châu Á, nhưng bị giáng trả và ngăn chặn, hiện nay Bắc Kinh mưu đồ bành trướng xuống phương Nam, ráo riết nô dịch hóa theo hình thức thuộc địa kiểu mới các nước Miến Điện, Việt Nam, Lào, Campuchia bằng những thủ đoạn từ lộ liễu đến tinh vi, từ hợp tác kinh tế, viện trợ kinh tế - tài chính - giáo dục - văn hóa, đẩy mạnh thương mại một chiều, làm đường xá, khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân bang đi lại không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh đạo chính trị của các nước ấy bằng mọi cách thâm hiểm, hủ hóa bằng tiền, gái, rồi đe dọa khống chế bằng tình báo, tập trung vào nhóm lãnh đạo cao nhất, làm cho những người này tê liệt, mất khả năng phản ứng, há miệng mắc quai, vì đã trượt quá sâu vào trong quỹ đạo quy phục làm bộ hạ tay sai của chúng (2).
“ …cuốn sách mới Death by China (Cái chết từ Trung Quốc) của 2 học giả Peter Navarro và Greg Autry được giới thiệu rộng rãi trên toàn nước Mỹ. Cuốn sách phơi bày mặt trái của hiện tượng «Phép lạ Trung Hoa» (Chinese miracle), chỉ rõ Trung Quốc là tai họa cho toàn nhân loại, là tên đế quốc mới thực sự, là tai ương cho chính dân tộc đại Hán, đang nô lệ hóa nhân dân Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, đang bóc lột tận xương tủy dân nước mình, đang xuất khẩu hàng xấu, hàng giả, hàng nhái, hàng chứa độc chất ra khắp thế giới, đang bành trướng sang châu Phi, Nam Mỹ, đang nô dịch hóa Đông Nam Á…”(3)
Trong ký ức Bùi Tín, cái bản chất Đại Hán không ngừng chảy rất ghê sợ trong huyết quản những tên thái thú Trung Quốc. Ông kể:
Hồi 1951 khi tôi phụ trách trường đạo tạo sỹ quan sơ cấp của Sư đoàn 304 đóng ở Thanh Hóa, một cố vấn Trung Quốc cấp Dinh (tiểu đoàn) được phái đến trường, gọi là đồng chí Triệu. Lúc nào anh ta cũng nói nhũn như con chi chi: «Mao chủ tịch phái chúng tôi đến giúp, nhưng chính là để học tập các đồng chí. Chúng tôi không am hiểu kẻ thù, không am hiểu chiến trường, ý kiến còn thô thiển, chủ quan, mong các đồng chí tuỳ nghi lựa chọn và lượng thứ cho». Nhưng bất kỳ ý kiến lớn nhỏ nào của anh ta mà chưa kịp thi hành anh ta tâu ngay lên thượng cấp để xử lý rất găng. Sinh hoạt cũng vậy. Anh ta ăn riêng có thịt, có cá, có rượu bổ, lại có ngựa cưỡi, có 3 người phục vụ: 1 cần vụ, 1 giám mã, 1 bảo vệ, đi thao trường về là nằm ngửa có cần vụ bưng nước ấm đến để ngâm chân và xoa bóp, nhưng lại luôn hát: chúng ta là con em nhân dân trăm họ, luôn sống giản dị trong lòng dân, hết lòng phục vụ nhân dân, luôn nhường cơm xẻ áo cho dân …” (2)
Song le, ông luôn tự hào về truyền thống chống Bắc thuộc của dân tộc mình: “Nhân dân Việt  Nam luôn kiên cường chống lại mọi hiểm họa ngoại xâm đến từ phương Bắc. Lịch sử tồn tại và phát triển của Việt  Nam từ xa xưa đến ngày nay đã chứng minh sự thật ấy” (3)
 Và vui mừng nhận thấy sức hậu thuẫn vô cùng lớn của quốc tế: “Cả thế giới tiến bộ, từ Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Ấn Độ, Úc, Liên hiệp Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada…đều đứng về phía nhân dân ta chống hành động ngạo mạn phi pháp của phía Trung Quốc…..Thái độ rõ ràng, kịp thời của Hoa Kỳ, cường quốc số một của thế giới, trong cuộc khủng hoảng biển Đông là rất quan trọng. Từ năm ngoái ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã tuyên bố rằng «Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia về thông thương trong vùng biển Đông và Thái Bình Dương», làm cho đại diện Trung Quốc Dương Khiết Trì giận dữ bỏ phòng họp ” (3).

Ông khẳng định: Việt  Nam đã chuyển từ thân Trung Quốc sang thân Âu - Mỹ ư? Thế thì càng tốt hơn nữa. Theo nghĩa thân Trung Quốc là thân Trung Quốc bành trướng kiểu Đại Hán, và thân Âu - Mỹ là thân những giá trị tự do, dân chủ đa nguyên đa đảng trên cơ sở bầu cử thật sự tự do và định kỳ (4) .

Ông nhìn nhận, như những nhà thông thái nhìn nhận: Trung Quốc chỉ là con hổ giấy, là quả bong bóng mỏng bơm căng: “Một số chuyên gia kinh tế, như Robert Fogel, giáo sư đại học Harvard Hoa Kỳ được tặng giải Nobel về kinh tế; nhà bình luận Salvatore Babones cho rằng …Trung Quốc hiện là nước mới giàu lên, nhưng còn rất nghèo, tổng sản lượng lớn là do dân quá đông, hơn 1,3 tỷ dân, nhưng hiện thu nhập tính theo đầu người lại đứng thứ 93 của thế giới - hơn 4.000 đôla/năm - chỉ bằng 1/10 của Hoa Kỳ. Chất lượng phát triển rất thấp. Các nhà kinh tế - xã hội cho rằng từ nghèo lên đến mức trung bình có thể là một bệ phóng, lại có thể là một cạm bẫy. … Điều nguy hiểm ở Trung Quốc hiện nay là chênh lệch giàu nghèo không những không thu hẹp, lại mở rộng ra ở mức quá đáng. Mới cách đây 30 năm, Trung Quốc chỉ có vài tỷ phú đôla, nay đã lên đến gấn 200 tỷ phú, tỷ phú giàu nhất sắp được vào Ban Chấp hành Trung ương đảng CS. Trong khi ở sâu trong nội địa, có vùng thu nhập bình quân chỉ đạt 1/10 mức trung bình. Hiện nay 1% dân số - chừng 12 triệu người thuộc phe nhóm, gia đình, con ông cháu cha thế lực cầm quyền - nắm trong tay hơn 40 % tài sản quốc gia. Bất mãn xã hội tăng rõ rệt. Mất ổn định chính trị do lòng dân không yên thêm trầm trọng. Bùng nổ xã hội là tất yếu. Hiện nay một năm đã có hơn 300.000 cuộc đấu tranh, đình công, bãi công, phá hoại công sở, nhà máy, gấp 6 lần 10 năm trước. Các học giả gọi tình trạng đó là «bị sập bẫy của phát triển», «chui vào cạm bẫy của mức công nghiệp trung bình», lãnh đạo thất bại trong việc «làm chủ chất lượng phát triển», làm thui chột công cuộc phát triển vì không thay đổi cơ chế, không chuyển đổi hệ thống cai trị.….Trung tướng Lưu Á Châu, chính ủy Học viện Quốc phòng, công khai cảnh báo rằng Trung Quốc sẽ sụp đổ như Liên Xô trước đây nếu không sớm từ bỏ chế độ hiện nay” (5).
 - 2 -
 Là con quan thượng thư dưới triều đình phong kiến nhưng Bùi Tín được kết nạp Đảng rất sớm. Ông sinh ngày 29/12/1927 tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, tháng 9 năm 1945 đi bộ đội và tháng 3 năm 1946 ( 19 tuổi) đã được kết nạp vào Đảng.
 Ông được Đảng trọng dụng, được phong hàm đại tá khá sớm, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân từ năm 1972, được bổ nhiệm Phó tổng biên tập báo Nhân Dân kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật từ năm 1988. Năm 1982 ông được thưởng Huân chương Julius Fuçik của Tổ chức các nhà báo quốc tế (OIJ). Nhân Dân và Quân đội Nhân dân là hai tờ báo lớn nhất và tín cẩn nhất của Đảng.
 Việc Bùi Tín được kết nạp Đảng sớm và thăng quan tiến chức nhanh có thể được giải thích bởi hai lý do:
 - Tuy là quan thượng thư nhưng lý lịch gốc của cụ Bùi Bằng Đoàn rất cơ bản và trong sạch. Nhà nghèo, thường phải quét lá đa để đốt lên thay đèn đọc sách nhưng 17 tuổi đã đỗ cử nhân Hán học rồi phải khai tăng thêm 3 tuổi để được vào trường Hậu bổ học tiếng Pháp. Được chọn vào triều đình Huế làm Thượng Thư (bộ trưởng) bộ Tư Pháp khi mới 44 tuổi. Suốt mười hai năm ở kinh đô, trông nom việc xử kiện của tất cả các tỉnh Trung kỳ, cụ vẫn giữ một đức tính liêm khiết đến mức tuyệt đối. Hồi đến nhậm chức tri phủ Xuân Trường (1927), cụ cho treo cái bảng ở cổng phủ ghi rõ: "Ai có việc hay đưa đơn, không được mang theo một lễ vật gì qua cổng này". Sau cách mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ ra làm việc. Hai lần đầu cụ từ chối. Cụ làm chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội từ cuối năm 1946 cho đến ngày mất, năm 1955. Người kế nhiệm Bùi Bằng Đoàn là Tôn Đức Thắng, sau đó, đến Trường Chinh.
 Hồi ở Việt Bắc, Bùi Bằng Đoàn và Hồ Chí Minh như hai bạn thơ tâm giao. Bài "Tặng Bùi Công" có thể xem là một trong những bài thơ hay nhất của Hồ Chí Minh: 
 Khán thư sơn điểu thê song hãn 
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì 
Tiệp báo tần lai lao dịch mã 
Tư công tức cảnh tặng tân thi... 


dịch là: 
Xem sách chim rừng ngoài cửa đậu 
Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi 
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa 
Nhớ bạn thơ xuân tặng một bài 


Bài họa của Bùi Bằng Đoàn: 

Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc 
Giang sơn vạn lý thủ thành trì 
Tư công quốc sự vô dư hạ 
Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi 

dịch là: 
Một lòng sắt đá phò nòi giống 
Vạn dặm giang sơn giữ thành trì 
Chăm lo việc nước không hề rảnh 
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù 

 

  - Bên cạnh nợ nước, Bùi Tín còn có mối thù nhà. Ông kể:
 “Tôi đã từng căm thù sôi sục. Mẹ tôi, người mà tôi yêu quý nhất trên đời, nhân ái với hàng xóm và thương yêu những người chiến sĩ như con mình đã từng là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. Có lần trong kháng chiến chống Pháp, tôi tạt về thăm mẹ sau hai năm đằng đẳng vắng nhà. Mẹ tôi ra đồng hái những nắm lá khúc về gĩa, làm bánh, hấp cho tôi ăn. Vài ngày sau đó, vào Tết Trung Thu năm 1948, trong trận càn của lính Pháp qua làng, một tên chỉ điểm đã dẫn lính lê dương xộc vào nhà tôi, bắn vào ngực mẹ tôi một tràng tiểu liên. Bà chết ngay trên sân nhà bếp. Từ đó tôi nuôi một ý chí căm thù khôn nguôi. Ra trận, trên chiến trường Trung Bộ, chiến trường Bắc Bộ hay Tây Nguyên, sau đầu ruồi của khẩu súng là tên địch đã giết mẹ tôi. Tôi có những người cháu ruột, con của các chị tôi tử trận ở chiến trường Huế, Quảng Ngãi và Tây Ninh. Và cháu Ngọc mới bốn tuổi, cháu ruột của vợ tôi bị bom Mỹ làm cho tan xác, chết chung cùng với các bạn của cháu ở làng Hưng Dũng (Nghệ An). Khi Mỹ thua trắng tay, tôi vui mừng vì những mối thù của riêng mình đã được trả sòng phẳng” (6)
 “Tôi thường nhớ đến những bạn bè thân thiết đã ngã xuống trong bom đạn ở Triệu Phong, Quảng Trị, ở Điện Biên Phủ, trên đường số 9, ở Tây Nguyên và ở miền Đông Nam Bộ...những nơi tôi từng đi qua. Tôi đã được sống sót, may mắn hơn những anh em khác biết bao. Tôi sửng sờ khi nghe tin người lái xe từng cấp cứu tôi đã chết trong một tai nạn xe cộ bất thần hồi tháng 12 năm 1990, để lại 6 người con (4 cháu còn nhỏ), vợ anh lại ở nông thôn cày ruộng, cuộc sống cực kỳ gieo neo. Anh cũng đã từng ở quân đội, chuyển sang báo Nhân dân như tôi và tình đồng đội, tình cựu chiến binh gắn bó hai chúng tôi” (6) . 
Ông nâng niu trân quý cái chất lý tưởng xuất phát từ lòng yêu nước trong sáng:

 “Lý tưởng xâm nhập tôi tự nhiên, sâu sắc ở tuổi 18. Tôi sống từ đó lạc quan, hừng hực cả thời tuổi trẻ. Vào bộ đội, nhẹ tênh, phơi phới, chỉ một bộ quần áo cũ, một chiếc áo len nâu cụt tay, thủng một lỗ ổ bên ngực. Đại đội trưởng ở dịch hậu (hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, Quảng Trị), khi chưa tới 19 tuổi, lo chuyện súng đạn, gạo, muối, lo chuyện trinh sát đồn địch, dẫn anh em đi phục kích, chan hòa với đồng bào sống dọc những bãi cát, sung sướng với củ khoai luộc ăn cùng cà muối của các bọ, các mạ (các bố, các mẹ), cũng có hồi cả đại đội bị sốt rét, bị bệnh ghẻ lở sâu quảng-những vết lở tròn sâu hoắm-mà vẫn vui hát náo nức trong các buổi lửa trại quân dân” (6)

-3 -
 Tháng 9 năm 1990 Bùi Tín sang Pháp dự Hội hàng năm của báo Nhân đạo (l’ Humanité) rồi quyết định ở lại Pháp để có thể công khai đấu tranh cho tự do dân chủ ở quê nhà. Bắt đầu lên tiếng trên BBC với ‘’Kiến nghị của một công dân Việt nam‘’ mỗi ngày ông một quyết liệt hơn qua những bài báo đăng trên Time, Far Eastern Economic Review, Washington Post, Le Monde, Talawas, Đàn Chim Việt, Thông Luận, Đối thoại, Tổ Quốc …, qua những phát biểu trên BBC, RFI, RFA, VOA. Với tư liệu đầy ắp, với sức viết tràn trề ông còn cho xuất bản hơn chục đầu sách : Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật, Về 3 ông Thánh, Mây Mù Thế Kỷ, Cung Vua và phủ Chúa,’Tâm Tình với Tuổi Trẻ Việt Nam, Following Ho Chi Minh, From Enemy to Friend  La face cachée du régime ….
 Cuống cuồng run sợ, người ta kết án ông là chống Đảng, phản bội Tổ quốc, bất mãn, làm tay sai cho các thế lực Diễn biến Hòa bình; hệ thống Tuyên giáo của ĐCSVN mở nhiều chiến dịch bôi bẩn, xuyên tạc, vu cáo ông….
 Không, nhà báo Bùi Tín không bất mãn cá nhân, bởi vì, như trên đã thấy, ông từng được Đảng trọng dụng, được thăng quan tiến chức khá nhanh.
 Tất cả chỉ là do ông vốn là người tôn thờ cái cốt cách di truyền trong tầng sâu tâm khảm ông: « Tôi không thể nào quên, cha tôi luôn nằm thẳng. Ngủ ban đêm hay ngủ trưa, đều một mực như thế. Hai tay chắp vào nhau đặt trên bụng. Suốt cả một đời người, ông luôn ngủ với một tư thế không thay đổi. Đi từ nhà trên xuống nhà dưới, đi bách bộ ở hành lang, hay ở trong sân nhà, cha tôi bao giờ cũng đi đến góc, rồi rẽ phải hay rẽ trái, không bao giờ đi tắt. Tất cả đều thành nếp sống và nếp nghĩ. Cũng có thể có người cho là lẩm cẩm. Nhưng cái ngay thẳng của người "quân tử" là như thế, phải như thế. Không thể nhượng bộ cho chính mìmh ” ( ), cho nên ông đằng đẵng bị cái “nỗi bất màn thánh thiện” dày vò. Ông từng tâm sự:
 “Đã 15 năm nay, từ những ngày Hòa Bình, nhiều nỗi đau giằng xé lòng tôi. Những nỗi đau không vật chất, không thể xác. Những nỗi đau ngấm sâu trong tâm linh. Không phải nỗi đau của sinh, lão, bệnh, tử. Dù cho lưỡi hái của Tử thần đã kề cổ tôi vào đêm 2-6-1989 ấy trong một cơn nhồi máu cơ tim cực hiểm. 
Đó là nỗi đau của tinh thần, của trí tuệ...
 Đã bao lần tôi thầm thốt lên: Ôi! Số phận của con người! 
Cuộc chiến tranh đã hao phí hàng triệu sinh linh, đều là con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả. Để làm gì? Để đến nỗi này chăng? Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày, với biết bao tủi cực và khổ đau...Nhân danh lẽ phải? Nhân danh lẽ công bằng? Nhân danh cách mạng? Tôi chẳng sao lý giải nỗi nữa! 
Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì? Để sau toàn thắng, cuộc sống của nhân dân ta còn lầm than, bi đát hơn cả thời chiến tranh, để Nguyễn Du sống lại sẽ còn phải khóc cho thân phận hàng chục vạn nàng Kiều hiện đại, đang nhan nhản trên các hè phố Hà Nội, Sài Gòn khi nắng chiều vừa tắt”
 (6).


Nếu giành thắng lợi trong chiến tranh để xây dựng một chế độ tiến bộ hơn, mang lại cho nhân dân cả hai miền đã thống nhất trong một nước độc lập thật sự, tự do, ấm no và hạnh phúc thì có thể chấp nhận. Thế nhưng tôi nhận ra rằng nền độc lập vẫn không trọn vẹn. Đất nước đã có độc lập theo nghĩa không còn bị nước ngoài xâm chiếm làm thuộc địa, nhưng đất nước vẫn chưa có độc lập, tự chủ vì còn bị một học thuyết ngoại lai cầm tù. Đây là một nét văn hóa gốc gác bị vi phạm. Bóng ma của chủ nghĩa Mác, nhất là của chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao... còn đậm nét trong suy nghĩ của các nhà lãnh đạo. Họ còn bị lệ thuộc. Quyền độc lập tự chủ của nước Việt nam nghìn năm văn hiến đã bị những người lãnh đạo cộng sản dâng cho một học thuyết lạ hoắc từ phương trời xa xăm ập đến! Hơn nữa chế độ xây dựng trong cả nước từ hơn 20 năm nay còn thua kém chế độ ở miền Nam trước khi gọi là "giải phóng!" Vậy thì giải phóng để làm gì? ở miền Nam hồi đó, dù chưa thật đầy đủ, đã có nền chính trị dân chủ, đa nguyên, đã có nền tư pháp tương đối độc lập, nói chung có tự do tín ngưỡng và tôn giáo, có tự do báo chí, ngôn luận. Tất cả đều còn khiếm khuyết nhưng đã khác xa, tiến bộ hơn cái chế độ độc quyền một đảng lộng hành, người dân không có quyền dân chủ, tự do báo chí là con số không, tù chính trị còn rên xiết” (7).
 Ông kinh hoàng nhìn thấy những tà thuyết của Mác-Lênin-Mao Trạch Đông- Xtalin không chỉ tàn phá đất nước ông, kìm hãm dân tộc ông mà còn hủy diệt cả đất nước láng giềng:
 Tôi đã vào Campuchia ngày 7/1/1979 cùng một mũi tiến quân lớn của bộ đội Việt Nam, sáng sớm đến sân bay Pochentong, trưa vào Hoàng Cung và sau đó vào sứ quán Tàu, ngôi nhà lớn nhất của Pnompenh. Hàng vạn người gầy ốm, ghẻ lở, ngơ ngác như ở địa ngục trở về, lang thang suốt hơn 3 tháng trời trên các nẻo đường cát bụi, không giầy guốc, giữa nắng gắt và mưa rào. Những hố chôn người tập thể rộng lớn, những cánh đồng đầy đầu lâu, xương sọ vỡ của những người bị đánh chết, ám ảnh tôi hàng chục ngày đêm ròng rã...Tất cả những điều rùng rợn ấy là từ một chủ trương "xây dựng một xã hộ cộng sản trong sạch nhất, công bằng nhất, tinh khiết nhất..."Tôi sững sờ tìm đọc và nhờ mấy anh bạn Campuchia dịch những tập nguyệt san lý luận "Cờ đỏ" xuất bản trong những năm 1977 và 1978 để hiểu rõ những cơ sở lý luận của những hành động tột cùng man rợ ấy, suy nghĩ về khả năng tha hóa đến mức nào của những tư duy bệnh hoạn. Sau đó, tôi sống trên các chốt tiền tiêu dọc biên giới Campuchia, Thái Lan với người lính " tình nguyện " Việt Nam, 2 chữ tình nguyện này ngày càng trở nên khó nghe và mĩa mai đối với tôi, chúng tôi chắt từng giọt nước đọng trên lá chuối và lá cây báng súng vào chiếc đĩa nhôm để uống, lau mặt và nấu cơm... Trên những chuyến bay định kỳ An-to-nốp 24 của Liên xô, tôi từng trở về thành phố Hồ Chí Minh cùng anh em thương binh ta, phần lớn bị cụt một hoặc hai chân do vấp mìn cá nhân của Trung Quốc chế tạo, ở bên trong biên giới” (6).
 Cho nên, năm 1982 ông đã gặp đại sứ Ngô Điền và thiếu tướng Lê Hai phụ trách công tác chính trị quân Tình nguyện Việt Nam nêu nhận định và phát biểu ý kiến khẩn thiết: "Tình hình hiện nay là bộ đội ta bị sa lầy, chỉ có cách là rút sớm toàn bộ các đơn vị ta về nước, giao lại cho bạn, và chuyển sớm cho Liên Hợp Quốc cùng Cộng đồng quốc tế giải quyết vấn đề Campuchia, nếu không tình hình sẽ còn gay go cho đất nước ta hơn nhiều”
 Năm 1986, sau khi ông Lê Duẩn mất, ông Trường Chinh được cử làm quyền Tổng Bí Thư, Bùi Tín đã viết một bản kiến nghị dài 5 trang đánh máy, đề nghị giảm số quân từ trên 1,6 triệu xuống 60 vạn trong 3 năm cho ngang với mức trung bình của thế giới, đề nghị đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát cả về kinh tế và chính trị, thực hiện hòa giải với tất cả các nước thù địch cũ: Nhật, Pháp, Trung Quốc, Hoa Kỳ.  

Được mời thỉnh giảng ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tại Hội trường lớn ở đây, tháng 4 năm 1990, nhà báo Bùi Tín đã dõng dạc phê phán: "Đảng đã bao biện, ôm dồm, dẫm chân lên chính quyền quá lâu rồi, đã đến lúc phải trả lại toàn bộ chính quyền cho các cơ quan dân cử. Có thể nói chính đảng đã vi phạm có hệ thống hiến pháp là luật cơ bản của đất nước, trong một thời gian dài. Hiến pháp chỉ rỏ rằng: nước ta, toàn bộ chính quyền thuộc về tay nhân dân, thông qua các cơ quan dân cử là hội đồng nhân dân và quốc hội. Nhân dân không bầu ra trung ương đảng và không bầu ra bộ chính trị. Trung ương đảng và bộ chính trị quyết định những nội dung, biện pháp, chỉ số, chính sách, về kế hoạch nhà nước trong 5 năm hay trong 1 năm về nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp v. v...đều là sai nguyên tắc, làm vậy là lấn quyền của quốc hội và hội đồng nhân dân..." (6)
 Dẫu sao, người ta vẫn thấy Bùi Tín chưa bao giờ gay gắt, cay cú, chưa bao giờ nặng lời, thậm chí nhiều lúc ông thiết tha như day dứt chính mình:
 ‘‘Và xin bạn hãy yêu thương cả những người bất đồng chính kiến với bạn, đừng bao giờ giận dữ, ghét bỏ, chửi mắng hay trong lòng khinh bỉ và xỉ vả họ. Họ chỉ là nạn nhân của cả một học thuyết có mục đích rất nhân văn (người không bóc lột người) nhưng với những biện pháp rất phi nhân tính (đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, kích động căm thù ngút trời, chiến tranh là phương pháp cơ bản, độc quyền chân lý) ; họ là nạn nhân của thời cuộc, của một ảo tưởng khổng lồ, dai dẳng, của những điều kiện lịch sử khách quan, ngoài ý muốn của họ; rồi mới đến họ là nạn nhân của thái độ bị động, theo đuôi, nhu nhược, mù quáng dai dẳng của chính họ’’ (8).
                                              *
Thế đấy, Bùi Tín không hề phản động, cũng không bất mãn, không cơ hội, ông chỉ thực hiện sứ mệnh cao cả của một công dân chân chính, một trí thức có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc mình. Những người lãnh đạo trước đây do nhận thức kém cỏi lại hợm hĩnh, ‘kiêu ngạo cộng sản’ khi có chức có quyền nên đã đối xử rất tệ bạc với những người như Bùi Tín. Thế hệ lãnh đạo hiện nay như Đinh Thế Huynh. Nguyễn Phú Trọng ….- thuộc hàng học trò, hàng em nhỏ của ông - hãy khách quan hơn, tỉnh táo hơn mà nhìn nhận lại để sám hối, sửa sai, công khai xin lỗi ông và mời ông trở về. Đấy là những bước cơ bản cần thực hiện trong tiến trình hòa hợp, hòa giải ngõ hầu xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc.

                                                                          Ngày Bùi Tín bước vào tuổi 85
                                                                           Hà Nội 29 tháng 12 năm 2011
                                                                                    Nguyễn Thanh Giang
                                                                    Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
                                                                            Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
                                                                                     Tel : (04) 35 534 370   

Ghi chú:
(1)  Bùi Tín – Thời kỳ “Bắc thuộc mới”
(2)  Bùi Tín – Bản chất chính quyền Đại Hán
(3)  Bùi Tín – Tình bạn Mỹ - Việt giữa hiểm họa bành trướng
(4)  Bùi Tín - Gió đã xoay chiều rồi chăng?

(5)  Bùi Tín  Người khổng lồ bị sập bẫy?

(6)  Bùi Tín – Hoa Xuyên tuyết
(7)  Bùi Tín – Mây mù thế kỷ
(8)  Bùi Tín -  Tâm Tình với Tuổi Trẻ Việt  Nam

Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012

TRÍ THỨC ? – KHÔNG CÓ TRÍ THỨC


Nhà văn Nhật Tuấn

 Không hiểu sao nhắc tới “trí thức” tôi lại nhớ tới trò chơi “ Chiếc nón kỳ diệu” trên tivi. Khi người chơi đoán :” chữ T”, anh Long Vũ lắc đầu : không có chữ T”. Chắc vì mới đây trên facebook, một “nữ trí thức tây học ”  về nước cả vài chục năm nay  đã viết một câu “xanh rờn ” :” Ông Vươn hay nhà nước sai thì có người trách nhiệm lo…” tôi phải thốt lên :” Hóa ra bác Mao rất sáng suốt :” Trí thức là…”. Nếu là “còm” trên trang  Anh Ba Sàm thì chắc no “ đòn hội chợ” , may thay, trên facebook chỉ có một ý kiến của Dạ Thảo Phương :” Cục” nào mà nói… đúng thế ạ? Đã là người không có trách nhiệm, thì còn lo cái gì?”


Xin bắt đầu từ các bậc cha chú thường được gọi bằng các nhà văn tiền chiến. May mắn cho họ thoát được nguy cơ “để trống nền giáo dục phổ thông sẽ tạo thành cái lỗ hổng cả đời chẳng bao giờ lấp nổi” mà nhà giáo dục học Liên xô Makarencô đã khẳng định rất chí lý. Vâng, thật may mắn  cho những Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… thời mài ghế nhà trường phổ thông còn được tiếp xúc với các nhà Ánh Sáng, với Hugo, Balzac, Apollinaire, Rimbaud… và cũng bất hạnh thay cho họ vào độ tuổi chín nhất của ngòi bút lại theo Đảng kéo hết nhau lên rừng chém tre, đẵn gỗ, học tập, kiểm thảo và đổi bầu sữa mẹ, từ nay trong cái nhà trẻ của thời đại công nông – Diên An, Lêninít, Xtalinnít… sẽ là nguồn sữa mới, cách ly với cả một thời “phục hưng” sau Thế chiến 2 bùng nổ những trào lưu hiện sinh, cấu trúc , hiện đại chủ nghĩa…
Sau 9 năm kháng chiến, các nhà văn “con nuôi” của Đảng vốn nặng mặc cảm “ăn theo cách mạng” trở về Hà Nội choáng ngợp trước  sách vở, tạp chí mới chất đầy trong “Thư Viện Quốc Gia”; nhưng than ôi từ nay trong mắt họ đã được gắn tròng kính mới để thấy “Picasso là nấm độc mọc trên cây gỗ mục của chủ nghĩa tư bản” ( câu nói đã đi vào sử xanh của nhà thơ Sóng Hồng tức đồng chí Trường Chinh kính mến), di truyền học và phân tâm học là sản phẩm của tư sản đế quốc.
Để hỗ trợ cho các “trí thức” hàng đầu đứng vững trên lập trường Mác-Lênin, cuốn sách của P. S. Tơ-rô-phi-mốp, Phê phán những khuynh hướng chủ yếu trong nghệ thuật và mỹ học phản động tư sản hiện đại, được dịch “khẩn trương” và xuất bản “khẩn trưuơng” tại Nxb. Sự thật, Hà Nội năm  1960. Ở San Jose (Mỹ) có nhà văn VK Vũ Huy Quang , nổi tiếng “mọt sách”, tới căn hộ của ông chỉ thấy toàn sách Anh, Pháp, Đức đến mức bay cả hồn bạt cả vía vì…sách. Có lần ông hỏi tôi :
” Ở Việt Nam có ai đọc từ đầu đến cuối bộ “Tư bản” của Mác ?
Tôi cười nhăn :
“ Có chớ…có người đọc từ A tới Z chớ ?”
Nhà văn Vũ Huy Quang tròn mắt :
“ Ai thế ? Ai mà ham học thế ?”
“ Dạ…ông ấy là người sửa…morasse của NXB Sự thật đấy ạ “
VHQ cười hô hố. Quả thực nếu tôi không nhầm, hiếm ai có gan đọc đến đầu đến đũa toàn văn pho tàng kinh điển Mác- Lênin, phần lớn chỉ đọc qua bản thuật lại hay tóm tắt như của Pulitzer.
Sự thiếu hụt trong tiếp nhận các trào lưu hiện đại đã gây ra lắm chuyện cười…ra nước mắt. Vào một lần lâu rồi khi còn làm biên tập NXB Văn học, tôi trao đổi với nhà thơ Chế Lan Viên về một bài viết dài của ông :
“ Thưa anh, theo em Hàn Mặc Tử chỉ có “yếu tố siêu thực “ thôi ạ. Anh viết “ Hàn Mặc tử” đi đầu trong chủ nghĩa siêu  thực  ở Việt nam là chưa thoả đáng”.
Nhà thơ nổi nóng :
“ Cậu nên nhớ tôi đã sang Pháp nhiều lần nói về thơ Hàn Mặc tử…”
“ Dạ vâng, nhưng cũng không vì thế mà làm cho chủ nghĩa siêu thực xuất hiện ở Việt Nam vốn chỉ nảy nòi ở các nước hậu công nghiệp khi con người đã quá quen với không gian ba chiều , muốn tìm tới những mê cung, những không gian khác , còn ở ta thì vẫn nông nghiệp lạc hậu ạ, thơ may lắm chỉ có “yếu tố siêu thực” chứ chưa thành hẳn một “chủ nghĩa” ạ…”
Tất nhiên để  sách được in  ông nhà thơ đành phải sửa theo ý kiến biên tập, chứ cãi làm sao ?
 Các bậc đàn anh đã “lỗ mỗ” thế, các thế hệ sau ra sao ? Các nhà văn thế hệ hai lớn lên trong kháng chiến chống Pháp, cậy thế con đẻ cách mạng, giáo dục phổ thông chưa mất căn bản, dám “nghĩ ra ngoài những điều Đảng nghĩ”, sục sạo vào tinh thần dân chủ mới sau thế chiến 2 nhờ thế ta có được những Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… Nhưng tiếc thay, chẳng tới được tầm cỡ như Andre Gide đã khẳng định, “lạ thay trong thời kỳ bị câu thúc và kiềm tỏa nhất , trí óc con người lại đạt tới hiệu năng cao nhất”. Trong thời kỳ bị cấm bút gắt gao nhất, trí tuệ của họ cũng chẳng đạt tới mức cao nhất, bởi thế khi được “cởi trói”, những gì mà các “thiên tài trong bóng tối” trình làng thượng số cũng chỉ tới mức “Men Đá Vàng” của Hoàng Cầm, “Những Ngã tư Và Những Cột Đèn” của Trần Dần,”36 Bài Thơ Tình” của Lê Đạt và Dương Tường, “Ô Mai” của Đặng Đình Hưng, “Porcinovani” của Nguyễn Xuân Khánh… không mấy gây được tiếng nổ nào.
Sự “mất căn bản” trong thế hệ trí thức thứ ba những người cầm bút mới kinh hoàng, lớn lên dưới mái trường XHCN, học kiến thức phổ thông thì ít, chính trị Mác-Lê thì nhiều, bởi thế những cây bút thời chống Mỹ như Đỗ Chu , Lê Lựu, Phạm Tiến Duật… một thời chỉ cần đọc hai tập “trói voi bỏ rọ” “Phương Tây Văn Học Và Con Người” của giáo sư Hoàng Tôn Trinh (tiếc thay cuốn sách đầy rẫy sai sót) là họ đã yên trí nắm được “phần còn lại của thế giới” bên ngoài các nước XHCN. Một thời, các nhà văn, nhà phê bình xúm vào chửi “Chủ Nghĩa Hiện Thực Không Bờ Bến” của Garaudy (Pháp) mà chưa đọc ông ta nổi lấy một trang mà chỉ “hóng chuyện ” qua các bài tóm tắt.
Ây thế nhưng đến cái thế hệ thứ tư, học hành loạng quạng đèn dầu nơi sơ tán, ngắt quãng vì tiếng còi báo động, đầu óc bị phân tán và chia cắt tới từng phân vuông vải, từng gam mỳ chính trong các ô tem phiếu và khi dứt chiến tranh ngay lập tức họ được đi Liên Xô, đi Đức… học hành với hành trang rỗng tuếch của một tuổi thơ thực sự là thất học. Từ vùng sơ tán nông thôn Việt Nam họ nhảy dù xuống những trung tâm văn minh Mạc Tư Khoa, Béclin… choáng ngợp trước tiện nghi và văn hóa trước đó họ mới chỉ thấy trên phim ảnh, họ nốc vội nốc vàng mọi thứ vào bao tử thành bội thực, “tẩu hỏa nhập ma”. Và than ôi đại đa số các tiến sĩ, phó tiến sĩ, những nòng cốt làm nên trí thức hiện đại là phần lớn thuộc đám này. Họ thu nhận thông tin ở dạng “cấp 2″ thường dẫn tới tiêu hóa một cách sống sít, mất căn bản các kiến thức thâu lượm được, khó bề tránh khỏi trạng huống “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Còn nhớ cách nay khoảng chục năm, một nữ tiến sĩ nghê thuật học du học ở Nga về viết bài lia lịa trên các báo. Tôi hỏi :” sao chị mới về nước mà đã rành về các cây bút trẻ thế ?”. Chị ta trả lời tỉnh bơ:”Thì đã có thời gian đọc cô cậu nào đâu, cứ đọc báo Tuổi Trẻ mà …viết.” . Thế rồi cứ hớt váng báo chí sau này chị cũng nổi tiếng, nhẩy lên tivi dậy dỗ thiên hạ dài dài. Có lần chị nói với tôi :” Tôi sắp in tập sách mà đang còn mỏng quá. Ông có bài nào cho tôi…”. Tưởng chị nói đùa, ai ngờ là thật. Chỉ có điều khi sách ra chị lờ tịt không trả nhuận bút và cũng không biếu sách tôi.
Vậy thì trí thức Việt Nam – người ở đâu ?
Hồi mồ ma Giáo sư Cao Xuân Hạo, tác giả hai tác phẩm nổi tiếng “Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng” và “Tiếng Việt – Mấy vấn đề Ngữ âm, Ngữ pháp, Ngữ nghĩa của tôi”, một trong hai người nghiên cứu tiếng Việt sáng giá nhất một thời : Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, người đầu tiên mang về Việt Nam lý thuyết âm tiết – hình vị (slogomorpherma),  tôi có  cuộc trò chuyện ngắn  vào  khoảng giữa năm 2001 với GS về đề tài “trí thức”
NT : Anh Hạo ơi, theo anh “trí thức là gì ?”!”
CXH : Tôi.. không biết, nhưng tôi biết một người chắc chắn là trí thức. Đó là ông Tạ Quang Bửu, nguyên Bộ trưởng Bộ đại học và trung học chuyên nghiệp, nguyên Thứ trưởng Bộ quốc phòng. Ông này khi làm Bộ trưởng thấy tình trạng quá ưu đãi con em công nông trong thi cử sợ chất lượng tuyển sinh không cao nên đã đề nghị công khai hóa số điểm thi, lập tức Bí thư Đảng đoàn lúc bấy giờ là ông Nguyễn Tống, chụp ngay cho cái mũ là “đâm dao vào sau lưng giai cấp công nông”. Từ đó ông Tạ Quang Bửu bị cách chức.
NT : Vậy còn ai là trí thức nữa ?
CXH : Còn nhiều chứ ? Ông Phan Đình Diệu, ông Nguyễn Tài Cẩn, ông Hoàng Tuệ, ông Lê Mạnh Thát, ông Tuệ Sỹ…
NT : Và cả Giáo sư Cao Xuân Hạo nữa chứ…
CXH : Tôi chỉ là một người làm nghề chuyên môn của mình đề phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc…
NT : Đó cũng là một định nghĩa về trí thức rồi . Anh có thể nói một câu thật tâm đắc về trí thức không?
CXH : “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri,thị tri dã…” Ngài Khổng Tử đã nói như thế . Câu này tưởng dễ mà rất khó…
NT : Vừa rồi có người đưa ra khái niệm “Trí thức quốc doanh” – anh có coi là vơ đũa cả nắm không?
CXH : “Trí thức quốc doanh” – một cụm từ rất haỵ Tôi hiểu đó là những người thuộc thành phần công-nông được nhà nước đưa đi đào tạo, không cần học giỏi,chỉ cần có bằng để mai mốt về… lãnh đạo, bởi thế càng ngu càng… tốt. Vừa rồi, Giáo sư Phan Đình Diệu có nói trong một cuộc hội thảo: “Tất cả nhũng gì Nhà nước đã công nhận đều là… đồ rởm”. Ông nói vậy nhưng không ai nghĩ rằng ông “vơ đũa cả nắm” cả.
Tôi cũng không dám vơ đũa cả nắm, đành xin sửa lại cái tựa :
“ Trí thức – có trí thức, nhưng mà là trí thức “quốc doanh”.
N.T.
1-2-2012

Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012

TÔI ÂN HẬN VÌ ĐÃ VÀO ĐẢNG, NHƯNG...

Lời bộc bạch của một đảng viên 15 tuổi đảng không dám viết đơn xin ra khỏi Đảng ?


Lâu nay tôi không viết blog, không comment vì tôi sợ. Tôi nghe được những thằng bạn làm bên an ninh nói rằng đang thực hiện những chỉ thị của cấp trên rất quyết liệt để tìm ra dấu vết tông tích của những blogger “có vấn đề” để có cách xử lý thích đáng. Tôi thực sự sợ, có lẽ là tôi hèn nhát. Nhưng hôm nay tôi muốn viết, tôi buộc phải viết, tôi không giải thích được tâm trạng của mình lúc này, nhưng tôi cảm nhận rõ ràng một sự thôi thúc phải nói ra những gì mình suy nghĩ cho nhiều người đọc. Sự thôi thúc đó đến từ đâu tôi cũng không chắc, nhưng thật tình là tôi vẫn rất run sợ khi post bài này. Tôi không phải là người dũng cảm, nhưng tôi thấy mình cần làm điều đó. Và tôi cũng chỉ có nơi này để viết, để nói ra được sự thật, blog là nơi duy nhất ở xã hội này người ta có thể nói thật, còn lại đều là một cuộc sống dối trá với chính mình và mọi người.
Tôi đã gần 50 tuổi, đang làm cho một viện nghiên cứu của Nhà nước, đã được 15 năm tuổi Đảng. Thật lòng là tôi đã nghĩ đến việc ra khỏi Đảng nhưng lại không dám thực hiện, tôi không đủ can đảm và mạnh mẽ để chấp nhận một cách kiếm sống mới hoàn toàn mà tôi không tự tin với nó. Mà bỏ Đảng thì chỉ còn cách bỏ cơ quan. Đã suy nghĩ rất nhiều cách mưu sinh khác nhưng vẫn không thấy cái nào là được. Các con tôi phải còn vài năm nữa mới có thể tự lo được. Lương hai vợ chồng cộng lại mới hơn chục triệu. Riêng tôi mỗi năm được thêm vài công trình nghiên cứu, chia ra cũng được khoảng 30-40 triệu đồng. Cái này chính là bổng lộc mà cấp trên ban phát vì nghiên cứu cho có, xong cho vào tủ, chủ yếu là viết theo ý muốn cấp trên rồi lập hội đồng khen nhau mấy câu, thế là xong. Giàu thì chủ yếu là các sếp lớn vì đề tài nào các sếp cũng có tên để chia tiền dù chẳng làm gì, có khi cũng chẳng nhớ nổi cái tên đề tài. Còn chưa kể những thứ quyền lợi mua sắm khác. Nói chung là nếu lên được trưởng phòng thì không phải lo tiền bạc, người ta cúng cho mình. Do vậy mà trong nội bộ người ta đấu đá giành giật nhau ghê lắm, vào Đảng cũng chỉ hy vọng lên được chức cao hơn. Nói thật là ngày xưa tôi vào Đảng cũng với động cơ như thế, nhưng không nghĩ rằng như thế chỉ mới là cái bắt buộc sơ đẳng, muốn ngoi lên được đòi hỏi phải nhiều thủ thuật lắm, và phải biết luồn cuối thật giỏi, chà đạp người khác mà không bị cắn rứt. Mà cả 2 cái này tôi đều dở, có lúc thấy phải làm nhưng làm cũng không đạt yêu cầu. Chuyên viên như tôi (dù là được xếp vào ngạch cao cấp) bây giờ toàn phải nói vẹt, nói dối đến mức mất tư cách mà chẳng biết phải làm sao. Giờ mới thấy mình hèn nhưng đã muộn. Tự an ủi trấn an mình “mưu sinh mà, thôi đành vậy…”
Những người Đảng viên như tôi bây giờ chiếm đa số tuyệt đối trong Đảng, đến 95%. Hồi tháng 4 năm ngoái, tôi được đọc một bản nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Dư luận Xã hội, đây là tài liệu chính thức nghiên cứu theo yêu cầu của Bộ Chính Trị . Qua đó nói rõ rằng Đảng viên bây giờ đều chán nản và bi quan, không còn tin vào đường lối chủ nghĩa Cộng Sản và học thuyết Mác Lê-Nin nữa, Đảng viên chỉ hy vọng vào sự đổi mới của Đảng. Nhưng bây giờ Đảng đã không  còn đổi mới nữa, đang đi vào ngõ cụt. Hầu hết những Đảng viên như tôi bây giờ đều mong muốn một sự thay đổi, nhưng họ lại sợ thay đổi. Lý do quan trọng nhất là họ sợ bị trả thù như lịch sử đã từng xảy ra, như Đảng đã từng làm, họ nghe thấy sự hung hăng và cực đoan của các Việt Kiều qua các lần biểu tình chống đối người trong nước qua làm họ sợ. Rồi kiểu tuyên truyền của Đảng cũng tăng thêm điều đó, nếu bạn là Đảng viên, đi họp sinh hoạt Đảng thì sẽ nghe thấy những lời lẽ cảnh báo rất nặng nề, nào là các thế lực thù địch, nào là sẽ không đội trời chung với Đảng viên, âm mưu diễn biến hòa bình có thể mất nước v.v..
Nhưng cái làm xói mòn niềm tin ở Đảng nhất là tham nhũng và đặc quyền thì Đảng chẳng có một biện pháp hiệu quả nào ngăn chặn, nếu không muốn nói là Đảng phải duy trì nó để sống và để cai trị quan chức...
Tôi đang đứng trước một trạng thái chông chênh, giữa những lựa chọn không dễ dàng: theo hiện trạng và thói xấu của xã hội để sống dễ dàng hoặc thay đổi để ko theo nó, hay tham gia vào những sự thay đổi của người khác làm xã hội tốt hơn. Tôi muốn 2 cái sau nhưng nhiều lần đã không vượt qua được chính mình. Hàng này tôi bị buộc phải học và thực hành theo gương và đạo đức HCM nhưng toàn là những gì đạo đức giả và ngụy quân tử. Tôi là người luôn kính trọng Chủ Tịch HCM, ngay cả khi đã đọc được những mặt trái của Bác. Tôi giữ thái độ đó vì tôi cho rằng Bác là một con người. Nhưng cách mà Đảng đang tuyên truyền về hình ảnh và đạo đức của Bác, bắt mọi người học tấm gương của Bác là cách mà người ta thường làm để ca ngợi những vị giáo chủ của các tôn giáo. Thật đáng buồn là những điều như vậy chẳng những không làm tôn lên hình ảnh của Bác mà ngược lại, vì Bác không có những điều cần thiết của một giáo chủ tôn giáo. Thời buổi bây giờ không còn là những thế kỷ trước, thông tin quá nhiều, nhanh và dễ kiểm chứng thì không thể tạo ra những myth để dẫn dắt lòng tin của mọi người được. Tôn giáo được tạo ra từ các myth, vốn là những hiểu biết sai lầm, có thể là dối trá nhưng lại mang ý nghĩa huyền thoại, thần thoại. Người ta đang làm cho hình ảnh Bác ngày càng trở nên méo mó và dối trá.
Gần đây tôi bắt đầu tin dần vào những gì vô hình như là định mệnh, số phận, vận nước... Không tìm thấy căn cứ khoa học nào, nhưng có lẽ niềm tin là tâm linh, không phải biện chứng khoa học. Do vậy, tôi cũng hy vọng như nhiều người dân đang hy vọng, hồn thiêng sông núi sẽ phù hộ cho vận mệnh của đất nước.
Tôi muốn nói với những người muốn mưu sự lớn và thực sự vì đất nước nhân dân, hãy nhắm vào những gì thiết thực nhất vì cuộc sống của đa số người dân, đừng có giương ngọn cờ dân chủ nhân quyền làm mục đích chính, những điều đó với người dân còn xa vời lắm. Chính quyền hiện nay dù làm ra vẻ chống đối và mạnh tay với những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền; giả bộ như là sợ những điều đó đe dọa sự cầm quyền của họ nhưng thực ra họ rất mong muốn những những người đấu tranh này lao vào những mục tiêu như vậy vì chúng chẳng thể nào thu hút quần chúng trong vài chục năm nữa. Họ ra vẻ cái này là gót chân Achille của Đảng nên phản ứng rất dữ dội, làm cho những người đấu tranh cứ tưởng thật là mình đã nhắm vào đúng tử huyệt của đối thủ và cứ thế húc đầu vào đá. Những gì thiết thực đối với quần chúng thì rất nhiều, nhiều vô kể, không thể nhắm đến hết tất cả một lúc được. Những con người sáng suốt sẽ nhận ra một vài điểm thật quan trọng từ những nhu cầu này, nhấn mạnh nó, giương nó lên làm ngọn cờ để tạo ra động lực cho đa số dân chúng thì mới có thể tạo ra lực lượng và thế lực thay đổi cái hiện nay được. Điều đáng mừng là một vài năm gần đây đã thấy xuất hiện vài người có tầm nhìn như vậy, không lao vào những khẩu hiệu dân chủ nhân quyền mà nhìn được những mấu chốt từ những gì rất thiết thực. Tôi có hân hạnh được trao đổi với những người như vậy trên blog và cảm nhận được sức mạnh tư duy của họ cho dù họ không nói gì về điều đó.
Nếu ai muốn copy bài này để phổ biến thì cứ tự nhiên làm, đừng hỏi ý kiến tôi. Mà cũng mong các bạn hãy làm điều đó vì có thể một ngày nào đó, tôi không đủ sự can đảm, không vượt qua nổi sự hèn nhát nên sẽ xóa hẳn cái blog này. Tôi đã từng nghe cánh an ninh nói rằng sẽ dựa vào quan hệ của con rể Thủ Tướng, là Việt Kiều trong giới tài phiệt, can thiệp với Yahoo để “lôi ra ánh sáng” kẻ nào là Change We Need để trị tội vì đã “vu khống” thanh danh của gia đình “phò mã”. Chuyện ấy cũng vài tháng nay rồi nhưng vẫn thấy Change tiếp tục viết bài, có thể là họ không làm được, và cũng có thể là chưa làm được. Nếu một ngày nào đó mọi người thấy blog này biến mất hẳn thì xin hãy hiểu và thông cảm cho tôi. Tôi rất biết ơn ai đó copy bài này về blog của mình để những gì tôi viết còn lưu lại được.
Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát như tôi vậy, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít, những người này đều không lên cao được. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát, thượng đội hạ đạp. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới hoặc những người không có chút quyền gì. Tôi đảm bảo rằng, khi có một sự thay đổi bọn người này là những kẻ trốn chạy đầu tiên hoặc quay ngoắc tức thì theo lực lượng mới. Bọn chúng đa số (tôi là thiểu số) đều là những kẻ giàu có, giờ thì lắm tiền nhiều của, sợ chết, và sẵn sàng trở thành kẻ phản bội cho người khác sai bảo nếu được đảm bảo rằng không làm gì bọn chúng.
Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắn và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa. Tôi thì nghĩ điều đó không tùy thuộc vào Đảng, vào Chính quyền nữa, cái này ngoài khả năng của họ rồi. Nó tuỳ thuộc vào lực lượng thay đổi có thể hành động lúc nào thì lúc đó sẽ có sự thay đổi. Còn thay đổi như thế nào thì lại tuỳ thuộc vào cái lực lượng này có muốn làm điều tốt cho người dân hay không. Thật là khủng khiếp nếu đất nước này tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
Hãy tha thứ cho tôi nêu ai đó vô tình bị xúc phạm từ những điều tôi viết, nhưng tôi vẫn tin những người đó rất ít, đếm trên đầu ngón tay. Tạm biệt mọi người, cũng có thể là vĩnh biệt…. Chúc mọi người vui khỏe và an toàn, chúc Việt Nam thay đổi tốt đẹp.
Tôi đã thực sự ân hận vì đã vào Đảng !

Thứ Ba, 24 tháng 1, 2012

THỬ VỚT CÁI BÌNH CỔ NGÔ BẢO CHÂU


Cách nay hơn hai năm Giáo sư Ngô Bảo Châu quyết định chuyển tới căn hộ căn hộ sang trọng tại tòa tháp đôi Vincom Hà nội do nhà nước tặng. Rồi ít lâu sau ông quyết định nhận ngôi biệt thự cũng rất sang trọng do nhà nước trao làm trụ sở Viện Toán do chính ông làm Giám đốc. Chuyện đã rất lùm xùm trên các trang mạng. Nhưng có lẽ lùm xùm hơn cả là dư luận quanh tuyên bố của ông về “lề là việc của con cừu chứ không phải của người tự do”. Nay thì cái tân “bổ đề” Con Cừu Thông Thái lại được cư dân mạng trả lại tên cho…ông bởi cú sảy chân của chính ông với định nghĩa “Danh hiệu trí thức không liên quan gì đến phản biện” khi “đăng đàn” trên Tuổi trẻ. Việc tranh luận là rất cần thiết giống như ngọn đuốc cháy sáng để soi tỏ chân lý nhưng trong chừng mục nào đó ngọn đuốc cũng gây bỏng cho tiến bộ xã hội khi trở nên quá đà. Thử vớt cái bình cổ Ngô Bảo Châu là bài viết cách đây hơn hai năm của tôi nay đành đăng lại để mong kêu lên một lần nữa: Bây giờ là lúc hãy để cái bình cổ Ngô Bảo Châu nằm yên dưới đáy nước.
Đăng ngày: 21:46 15-11-2010
Mai xuân dũng 15/11/2010
Chuyện Chính phủ giao cho gia đình GS Ngô Bảo Châu sử dụng căn hộ rộng 160 m2 thuộc khu căn hộ cao cấp của tòa nhà cao tầng Vincom B Hà nội và gia đình GS đã dọn về ở đã được nửa tháng chắc ai cũng biết. Và chuyện đó đã gây ra một cuộc khẩu chiến và cả bút chiến giữa những người ủng hộ GS Châu và những người phản đối.
Đó là câu chuyện vừa buồn vừa tức cười.
Riêng tôi chỉ gọi đó là “câu chuyện”. Và khi chuyện đã nhàn nhạt thì tôi gọi chuyện gần hết tính thời sự đó là: Chiếc bình cổ về GS Ngô Bảo Châu.
Chiếc bình cổ đó vẫn lềnh bềnh. Nhưng với tôi, đáng ra nên để nó chìm.
Vậy mà bỗng dưng tôi lại vớt chiếc bình cổ đó lên. Vâng tôi vớt lên bởi nếu không không làm thế, khi mọi người vẫn chưa buông tay cho nó chìm xuống thì với tôi, có gì đó giống như sự bất nhẫn. Chỉ là bất nhẫn với cá nhân tôi mà thôi vì tôi đã im lặng.
Và bây giờ, tôi đang ngắm nghía lại “chiếc bình” đang đặt trên bàn làm việc của mình và gõ lên bàn phím như những lời độc thoại.
Thật sự đó là chiếc bình vẫn còn lấp lánh sáng tự thân sau khi đã sáng chói lên một cách vô duyên như ánh lửa hàn trong thư viện chứ không phải trong xưởng cơ khí như đúng ra phải thế. Sự vô duyên đó là nhờ các nhà báo quen ăn theo nói leo nhưng thạo tống tiền. Rất buồn cho các nhà báo, nhưng phải thừa nhận thật sự nó là như vậy.
Như nhiều người đã nói, có lẽ trên thế giới này chỉ có 1 phần trăm triệu người may ra hiểu cái “Bổ đề” đó nó ngang dọc, nông sâu ra sao. Chưa kể có nhiều người còn nói (có thể không sai) rằng cái “Bổ đề” đó sẽ có tính ứng dụng hiệu quả cho kinh tế Việt nam vào năm 3.500 nghĩa là sau 1.490 năm nữa.
Nhưng tôi muốn rạch ròi. Kể cả là cái món “Bổ” đó có hiệu quả sau hơn 1000 năm nữa thì đâu phải là nó đáng vứt đi. Trong lịch sử, đã có phát minh khoa học bị xếp xó đến hơn 1000 năm sau mới được chứng minh và đem lại thay đổi lớn lao cho bộ mặt thế giới và nếu nó chưa thể “bổ” cho nước mình thì cũng “bổ” cho nhân loại chứ không phải là vô ích. Mặt khác, một công trình khoa học đã làm cho thế giới biết đến Việt nam và hiểu rằng ngoài cái chuyện “đánh đấm”, Việt nam còn là một đất nước có khả năng về khoa học kỹ thuật. Đó là một cái “Bổ” về tinh thần rõ ràng không chỉ dành riêng cho ông Chính phủ mà còn “Bổ” cho mỗi người Việt nam, cải thiện niềm tự hào Hai lúa của chúng ta.
Chính vì vậy theo tôi, việc GS Châu nhận căn hộ sang trọng đó của Nhà nước trao thưởng là hoàn toàn xứng đáng với những gì GS đem lại cho đất nước này. Mặt khác, ông Chính phủ cũng khá “rắn” khi chỉ quyết định trao cho gia đình GS Ngô sử dụng chứ không được sang nhượng hoặc bán đi.
Thử đặt địa vịa chúng ta vào chỗ GS họ Ngô mà xem. Giả sử sau việc GS từ chối căn biệt thự mà nhà kinh doanh địa ốc Đào Hồng Tuyển có nhã ý “biếu” nay lại từ chối căn hộ Chính phủ “tặng” thì có phải là tự GS đã đẩy mình vào tình thế quá khó khăn hay không?. Về mặt thể diện Quốc gia, một công dân thẳng thừng từ chối sự quan tâm của Nhà nước là đã đẩy Nhà nước vào thế “bí”. Như vậy, ông Chính phủ nếu không “thù dai” thì cũng không thể chịu được cái chuyện mất mặt như thế. Đường đường là một Chính phủ lại được lãnh đạo bởi một đảng độc quyền mà lại để công dân của các vị “dám” như thế sao? Thế giới sẽ nhìn nhận việc này như thế nào?. Chuyện không hề nhỏ. Nói No, thank với cá nhân ông Đào Hồng Tuyển thì được chứ nói vậy với ông Chính phủ thì chuyện con kiến sẽ là con voi.
Chính vì vậy, tôi cho rằng GS Ngô nhận nhà là hành vi của một công dân có  trách nhiệm với Đất nước (chứ chưa nói đến việc có trách nhiệm với Nhà nước)
Cũng có người nói, GS không nghèo trong khi các GS khác có cống hiến nhiều cho đất nước vẫn chưa được đãi ngộ gì đáng kể, mặt khác căn hộ của GS mới nhận là tiền thuế của dân thì việc GS Châu nhận nhà là một việc không nên làm. Tôi không nghĩ thế. Như đã nói, GS Châu xứng đáng nhận phần thưởng thì chẳng tội vạ gì mà từ chối. Nếu từ chối, dân vùng lũ lụt cũng chẳng nhận được thêm một gói mì tôm nào đâu mà các nhà khoa học khác cũng chẳng vì GS Ngô không nhận nhà mà ông Chính phủ đem xuất nhà ấy tặng cho GS Tụy hay GS khác đâu mà có khi lại chỉ béo ông quan chức nào đó thôi. Công bằng là cái gì đó rất xa xỉ, nhất là ở nước ta.
Tất nhiên, GS Ngô nhận nhà là một việc, việc ông Chính phủ tặng nhà có đúng đắn hay không là một việc khác. Chuyện này tôi xin không bình luận vì nói thực, ông Chính phủ xử sự nhiều việc lớn hơn còn chưa “ngon” nói chi là cái việc con con này.
Sau hết, việc còn lại ở đây là chuyện của chúng ta, những người đã sử xự ra sao về các sự vụ “trong nhà”. Nếu những việc quan hệ đến sự tồn vong của dân tộc, những việc đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia đã gắn kết chúng ta, biến chúng ta thành một khối thống nhất thì những việc nhỏ như con thỏ hàng ngày dính dáng đến miếng cơm manh áo hay chỉ vài lời sơ xuất với nhau lại làm chúng ta chia rẽ ghê ghớm. Điều này đã làm chúng ta mất đi sự công tâm vốn rất quan trọng làm nên chất kết dính chúng ta với nhau. Người Việt nam mình ai mà chẳng biết nước ngoài họ đã tổng kết về cái “đức” này của người Việt qua câu chuyện có 3 người Việt chẳng may bị tụt xuống một cái hố. Nếu chỉ có một người thì thật dễ dàng cho việc leo lên nhưng cả 3 không ai chịu cho ai lên trước nên cuối cùng cả lũ thà cùng nằm chết gí dưới đáy hố còn hơn.
Không chỉ chuyện quanh cái “bình cổ” Ngô Bảo Châu mà còn bao chuyện lẻ tẻ khác, chúng ta luôn cố chấp, bới móc nhau vì những việc bằng cái mắt muỗi mà quên mất rằng nếu xét về đại cục, chúng ta là những người cùng cảnh ngộ.
Chúng ta hiện nay đang ngồi dưới đáy giếng chứ chả phải dưới cái hố đâu. Chẳng lẽ chúng ta cứ mãi mãi nắm chân nhau lôi xuống cho đến bao giờ?
mai xuân dũng

Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012

HÀ NỘI 30 TẾT NHÂM THÌN



Năm nay xuân sớm, lịch âm thiếu, 29 đã là 30. Nhâm Thìn còn vài giờ nữa thôi là tới.  Ngoài trời mưa xuân lất phất bay. Mọi việc chuẩn bị Tết xong xuôi rồi, nào ta ơi, lại lang thang ngày 30 tết.
Chạy qua Bờ Hồ thấy các chú công binh đang rét so vai bên gốc lộc vừng.
Năm nay vắng vẻ nhỉ?
Dạ, năm nay bắn pháo hoa có 15’ thôi nên không đông anh em.
Lãnh đạo bồi dưỡng anh em  khá không?
Gãi đầu gãi tai cười trừ. (Ý a, chắc khó nói)
Các chú CSGT, An ninh và đám đồ đệ dân phòng, trật tự vẫn ngồi dặt dẹo bên các quán trà. Khổ, rét thế này 30 tết vẫn phải chết gí ở đây…cha tiên sư mấy thằng phản động nó sợ dân biểu tình thế.
Lên Nhật tân để chụp hoa đào.
Năm nào cũng thế, 30 tết là lòng trĩu nặng. Mình buồn chẳng biết vì sao mình buồn. Năm nào cũng một mình ngồi thu lu ở Hồ Tây một giờ đồng hồ tĩnh tâm. Anh em, bạn bè…ai còn ai mất , ai đã đi thật xa, ai đang trong trại, trong tù…
Năm nay dở chứng mò lên tận bến sông Hồng chân cầu Thăng long hứng gió. Chao ôi, đợt gió mùa đông bắc bổ xung đang về, gió sông thổi lên lồng lộng. Tê tái.
Thoáng trong gió buồn bên dòng nước trôi lững lờ
Chờ một ngày tươi sáng nước sông Hậu Giang xanh ước mơ
Nhấp nhô chuyến đò đưa người đi tìm đường tranh đấu
Giành lại đời ấm no những ngày sau
Sóng dâng cuốn trào như ngàn tiếng kêu thét gào
Cùng tìm đường tranh đấu
Xóa tan khổ đau muôn kiếp sau
Bài Những nẻo đường phù sa của Bảo Phúc hát về dòng Hậu giang mà sao mình cứ quen hát trẹo đi là: Chờ một ngày tươi sáng nước sông Hồng xanh ước mơ.
(Nước sông Hồng có bao giờ mà xanh cho được).
Vườn  đào Nhật Tân, Tứ liên bây giờ bé lắm. Dân ven sông bán đất cho người ta xây nhà, biệt thự cho tây thuê, làm nhà nghỉ, nhà hàng. Các ruộng hoa ngút mắt ngày xưa giờ bé cỏn con. Vài năm nữa chắc làng hoa chỉ còn là trong hoài niệm.
Mấy năm nay đào không được đẹp.  Hoa thưa, lộc ít, sắc kém tươi. Thường hàng năm vào đầu vụ, dân vượt phù sa lên ruộng ủ gốc. Mấy năm nay lòng sông ít phù sa, nước cạn. Năm ngoái tàu bè chết gí bãi trên bãi dưới, cát vàng vàng Phú thọ không về được, giá cát tăng gấp ba gấp bốn lần. Đào kém phù sa sắc xuống trông thấy. Đào bích vẫn rộ hoa nhưng cánh nhỏ tí, sắc đỏ pha nâu tía nhìn như hoa héo. Dân chơi đào chuyển qua chơi đào phai. Dẫu lá không dầydặn mướt xanh, dẫu lộc không cứng cáp nhưng được cái sắc hoa tươi tắn, không được như màu môi con gái đang yêu thì ít ra cũng bành bạch  như các chị tuổi hồi xuân.
Lang thang đến trưa cũng nhớ phải về bà nội chuẩn bị cho mâm cơm chiều 30 tết.c
Mẹ già ra đón con trai, vui lắm. Thấy mẹ già cười  mà sao thấy nao lòng. Cố lắm mới kìm nổi nước mắt đang muốn trào ra.
Mai Xuân Dũng

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

CÁN BỘ LÃNH ĐẠO


Một đám cảnh sát và trật tự chợ đang lập biên bản tạm giữ một người đàn bà vì tội dùng đòn gánh chống lực lượng liên ngành.
Một người đàn ông dáng đường bệ đi vào:
-          Này, các cậu thả bà này ra, trả hàng cho người ta
Cảnh sát 1:
-          Bà này đã bán hàng không đúng nơi quy định lại chống người thi hành công vụ. Bắt giữ là đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật, thả là thả thế nào. À…à..mà bác là ai đấy.
-          Tôi là cán bộ lãnh đạo đây. Các cậu biết không, bà này một vai gánh cả gia đình và chỉ trông vào gánh hoa quả mà sống thôi đấy. Các cậu cần phải có lương tâm chứ.
Cảnh sát 2:
-          Dạ, nhưng mụ này ghê gớm lắm sếp ạ, ai cũng bán rong thế thì Ban quản lý lấy đâu ra tiền nộp lên bây giờ.
Cảnh sát 3:
-          Giữ ông này lại, kiểm tra giấy tờ xem nào. Cán bộ cái con khỉ gì.
Quả nhiên ông “sếp” này chỉ là thợ sửa đồng hồ chứ chẳng phải sếp nào hết. Cảnh sát 1 và 2 phục lắm hỏi:
-          Sao cậu giỏi thế, làm thế nào biết lão kia không phải là cán bộ lãnh đạo ?
-          Hì, giỏi gì đâu, chịu khó nghĩ một tý biết ngay mà. Thời nay làm éo gì có thằng cán bộ lãnh đạo nào biết thương dân. Lão nói đến “lương tâm” là tao biết ngay lưu manh giả danh cán bộ rồi.
-          Ờ, mày nói có lý thật. Nhưng cũng có cán bộ lãnh đạo có lương tâm đấy chứ, cán bộ thì có ba, bảy đường cán bộ.
-          Mày dốt bỏ con mẹ. Cán bộ lãnh đạo có lương tâm là cán bộ đã hạ cánh an toàn rồi, no rồi, kiếm tý lương tâm cho nó đẹp cái mặt tiền thôi. Còn đương chức đương quyền mà có lương tâm thì mua thế chó nào được biệt thự, xe hơi. Chú còn là phải học nhiều.
Mai xuân Dũng

Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012

FB. Ứ DẠI.


Anh chàng người Mỹ gốc Do Thái Mark Elliot Zuckerberg, người sáng lập mạng xã hội Facebook thật sự là một nhân vật kỳ tài. Khen anh ta giống như bảo biển lắm nước muối.
Đây nhé, năm 2010, Zuckerberg được tạp chí Time bình chọn là Nhân vật của Năm. Và chẳng có ai phản đối Time cả đơn giản vì Time không phải là Viet nam Nex Top Model hay Cặp đôi hoàn hảo. Mark có tài sản cá nhân ước tính khoảng 17,5 tỷ USD, xếp thứ 14 trong bảng xếp hạng 400 người giàu nhất Hoa Kỳ của tạp chí Forbes. Như vậy người ta bình chọn anh ta là nhân vật của năm không phải vì số tiền anh ta có. Có lẽ họ chọn anh vì tốc độ lũy tiến tài sản. Năm 2008 khi mới 28 tuổi Mark đã có 1,5 tỷ USD trong túi. Thật quá nể với một người trẻ như vậy. Xét về khả năng tài chính, đó là số tiền bầu Đức của Việt nam có thể nhếch mép và đôi chục người Việt khác coi anh ta là hàng…con cháu. Nhưng chỉ có Mark mới có khả năng nhân số tiền 1,5 tỷ USD thành 17,5 tỷ trong có 2 năm. Đó vẫn chưa phải là điều đáng kể. Time bình chọn Mark chính là vì anh ta đã làm được điều không tưởng là tạo ra được kết nối trực tuyến toàn cầu thay cho việc kết nối vật lý mà vẫn đảm bảo tính riêng tư. Người sử dụng vẫn sở hữu, sử dụng thư viện thông tin cá nhân nhưng vẫn có khả năng giao tiếp với cộng đồng mạng  toàn cầu trong cùng một lúc và sự chia sẻ thông tin là vô giới hạn.
Nếu Blog là Góc sân thì FB là Khoảng trời. Nếu Blog là một ngôi nhà trong rừng thì FB là một ngôi sao trên bầu trời, bất kỳ nơi nào người ta cũng có thể nhìn thấy. Trong một không gian và thời gian nhất định. Blogger có thể miệt mài vài giờ thậm chí vài ngày để trình bày một ý tưởng để rồi ngồi chờ vài tiếng cho đến cả tuần để ngong ngóng một hồi âm. FB thì khác, ở hoàn cảnh tương tự, anh có thể quẳng lên đó một con chuột chết cho đến chuyện cu cậu Kim ủn mới được truyền ngôi Lãnh tụ tối cao là cả thế giới lập tức biết ngay. Họ có thể ủng hộ hoặc phản đối bạn bằng một diễn văn hoặc một bình luận vỏn vẹn một chữ tùy theo ý tưởng. Một người tận cùng Bắc cực dễ dàng gửi tới bạn một thông điệp biểu thị sự tán đồng chỉ bằng một cú nhấn Like mất 0,001 giây.
Điều lý thú là giao diện của FB cho phép bạn có thể ngồi một mình quan sát thế giới lại có thể là thành viên của hàng chục câu lạc bộ mà các thành viên của nó mặc nhiên duy trì việc giao tiếp trực tuyến ngay cả trong khi đang ngâm mìnhtrong bể sục. Bạn đừng thắc mắc khi con của bạn đem latop vào toilet và từ đó vẳng ra tiếng cười rúc rich, các mẩu thoại vui vẻ với cô A hoặc trả lời các vấn đề liên quan đến bài luận nào đó với cậu B y như trong một buổi học nhóm đông người. Đó là điều người giầu trí tưởng tượng nhất cũng không thể nghĩ tới chỉ mới vài năm trước. Anh chàng Mark đã đẩy Lịch sử thế giới từ  một cuộc chạy Marathon sang cuộc rượt đuổi 100 mét.
Vậy tại sao Giáo chủ Hồi giáo hàng đầu Iran Lotfolla Safi-Golpaygani đã lên tiếng coi việc sử dụng FB là tội phạm?
FB đã làm món Koran ế hàng chăng? Không. FB không phải là một triết thuyết càng không phải một đảng đối lập, FB chỉ là chiếc ống nhòm siêu xa thêm tính năng như một điện thoại di động vệ tinh mà thôi. Một số thể chế thối nát sợ FB vì FB như một công cụ giúp người dùng tụ tập đông người bằng trực tuyến, chê bai cái mùi xú uế họ đang buộc phải hít thở. FB cho người ta quyền được hô khẩu hiệu, trương ra các băng dôn hoặc đơn giản là nói thật với nhau trong khi ở môi trường khác người ta buộc phải nói dối để bảo đảm anh toàn. Theo Wikimedia trên thế giới sấp xỉ 200 Quốc gia, chỉ còn vài nước cấm hoặc tích cực ngăn chặn FB trong đó có Trung Quốc, Việt nam, Iran. Riêng  Bắc Triều tiên thì khỏi kể  vì nước này cấm cả điện thoại di động chứ nói gì  đến Internet.
Nói chung với các nhà độc tài, Facebook rất nguy hiểm. Nghe đâu người dân Lybia đã dùng chiếc xe FB đưa nhà lãnh đạo độc tài Gaddafi vào ống cống. nghe đâu FB cũng góp phần giúp các dân tộc Ả rập, Bắc phi sản xuất ra loại nước hoa nhãn hiệu Nhài mà các tổng thống tham quyền cố vị mới ngửi thoảng qua đã muốn ngất xỉu.
Để ngăn chặn việc nhân dân sản xuất ra vài loại nước hoa kiểu như hoa cải chẳng hạn, bây giờ thứ hương liệu facebook đang bị cấm nhập. Tuy nhiên việc chặn FB giống như việc đổ mực lên trời. Khó lắm.
Có một việc chuyên chính dễ làm thì người ta lại chẳng làm là cho chiếc trực thăng chở cậu Mark khi đi du hí vùng núi non châu Á nổ bùm một cái.
Nhưng nghĩ lại đó cũng là một việc không nên làm vì Mark có cô người yêu mới đính hôn là một người gốc Trung Quốc. Động đến Trung Quốc là mất cả tiền lẫn quyền cho dù chỉ là một thứ Trung Quốc bóng vía mà thôi. Ứ dại.
Mai Xuân Dũng

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012

THƯ GỬI CÁC BẠN MẬT THÁM


Các bạn mật thám thân mến
Trong những ngày cuối năm vừa qua, chứng kiến công  việc của các bạn mới thấy cảm thông với nỗi vất vả của các bạn cả về thể xác lẫn tinh thần. Tôi trăn trở nhiều đêm về các bạn, muốn viết về các bạn trước khi những tờ lịch năm cũ vẫn chưa bị bóc xuống để coi như thay một lời chúc mừng năm mới, nhưng cứ lần lữa mãi vì chưa chọn được đại từ nhân xưng nào khả dĩ để gọi các bạn cho đúng. Đó chính là sự muộn màng của bài viết này. Còn giờ đây khi đã gọi các bạn bằng từ “Mật thám” thì tôi cũng phải có đôi lời giải thích tránh cho những hiểu lầm không đáng có từ phía các bạn.
Không cần thiết phải tra từ điển Việt-Việt, các bạn chắc cũng hiểu đây là từ không mấy tốt đẹp dành để chỉ những người làm công việc theo dõi, dò xét, thu thập thông tin về một người hay một tổ chức nào đó một cách bí mật nhằm phục vụ cho một tổ chức  hoặc một đảng phái nào đó.
Trong thời Pháp thuộc, Mật thám là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ thực dân. Mật thám có thể là quan chức trong ngành Cảnh sát như  Bazin là kẻ đã ra lệnh đàn áp cuộc biểu tình của học sinh Trường Pétrus Ký, bắn chết sinh viên Trần Văn Ơn. Mật thám cũng có thể là người hoạt động cách mạng chống Pháp rồi trở thành chỉ điểm cho mật thám Pháp như Lâm Đức Thụ, kẻ bán đứng Phan Bội Châu, về sau bị dân quân giết tại quê hương làng Vũ Trung, huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Nói sơ qua như thế để thấy Mật thám là một nghề xấu xa luôn bị người đời căm ghét, khinh bỉ. Chả thế mà bài Á tế Á ca trong sách giáo khoa chúng ta đã học có câu: Lũ mật thám chó săn khéo rúc…
Dù muốn tránh gọi các bạn bằng từ mật thám nhưng quả thật cũng chẳng thể gọi các bạn là thám tử-một từ có nghĩa khác hẳn công việc các bạn đang làm cũng như không thể gọi các bạn là An ninh vì ai dám nói  các bạn đang làm việc cho lực lượng Công an nhân dân?
Ngày đó mấy anh chị em Thiện nguyện viên đem sách về tặng các cháu thiếu nhi nông thôn và thăm một Cô nhi viện của Bùi Chu, nơi đang chăm sóc các cháu nhỏ tật nguyền. Ai đã đến nơi này không thể cầm được nước mắt khi thấy hàng trăm cháu bé không may mắn bị khiếm khuyết về thể chất lại bị bỏ rơi không nơi nương tựa. Các cháu được Cô nhi viện Thánh An tiếp nhận chăm sóc, nuôi nấng chỉ bằng nguồn kinh phí của những ân nhân xa gần.
Cô nhi  viện Bùi Chu đã có từ năm 1852 do Đức cha Joseph Diaz Sanjurjo người Tây Ban Nha thành lập nhằm nuôi dưỡng trẻ mồ côi khuyết tật từ 12 tuổi trở xuống không phân biệt lương giáo. Trải qua 156 năm, Cô nhi viện đã nuôi dưỡng không biết bao nhiêu các cháu nhỏ. Trải qua các thăng trầm của lịch sử cả về những cấm cách về đức tin cũng như nạn đói hoành hành, có thời điểm Cô nhi viện đã phải tiếp nhận tới 2000 cháu bé (Sử ký địa phận miền Trung, trang 237-238) và tồn tại đến ngày nay.

      IMG_5768.JPG            

      IMG_5892.JPG
Tại đây, đi tới đâu cũng có người bám theo các Thiện nguyện viên. Ban đầu không ai để ý nhưng khi các bạn Thiện nguyện viên bị  theo từng bước và có những những người khác lén quay phim trong suốt hành trình, suốt thời gian và trong tất cả công việc thì ai cũng hiểu rằng mình đã bị giám sát.  Có lẽ các chị làm việc ở đây đã quen với các hoạt động mật thám như thế nên nói nhỏ với các bạn Thiện nguyện viên rằng: Các anh chị đang bị theo dõi đấy, họ đứng đầy cả bên ngoài kia kìa.
Khi những thùng sách quyên góp chủ yếu là sách giáo khoa, truyện cổ Grim, truyện tranh Cô bé quàng khăn đỏ… vv…được mở ra trao cho các cháu nhỏ thì các bạn mật thám đã xông tới tận nơi lật từng cuốn ra xem không cần sự đồng ý của chủ nhân. Những hành động vượt quá phạm vi mật thám như thế đã làm cho không khí trở nên hết sức căng thẳng. Nó giống như một hình thức đàn áp tinh thần.
Một phụ nữ người Australia có nhiều năm chuyên làm các công việc thiện nguyện trên khắp thế giới khi đang đẩy x e lăn cho một cháu nhỏ ra hóng nắng tình cờ gặp chúng tôi cũng nhắc nhở rằng: “Các bạn đang bị chụp ảnh lén đấy. Ở đây đôi khi tôi cũng bị người ta đòi xem passport khi đang chăm sóc các cháu nhỏ. Làm việc thiện nguyện ở Việt nam thật khó”              
   DSC08999.jpg          

   DSC09000.jpg 


Có thể có ai đó lợi dụng các hình thức thiện nguyện để làm những việc xấu như “âm mưu lật đổ chế độ, tuyên truyền nói xấu đảng” chẳng hạn nhưng thực tế tất cả các hoạt động từ thiện đều mang đến cho mọi người kém may mắn tình thương yêu, sự cảm thông chia sẻ với những mất mát của đồng loại. Hầu hết kinh phí làm từ thiện đều được chắt chiu tằn tiện từ nguồn thu nhập ít ỏi của những người  có tấm lòng bác ái được chia sẻ một cách âm thầm vô vị lợi. Điều đó khác hẳn với những cuộc làm từ thiện bằng tiền ngân sách rầm rộ vẫn thấy trên ti vi.
Có thể các bạn mật thám được giao nhiệm vụ theo dõi các đối tượng được cho là nguy hiểm nhưng thực tế, các bạn đã thấy rõ rằng những cuốn sách giáo khoa, chuyện cổ tích cho trẻ thơ kia là hoàn toàn chẳng có gì là tài liệu tuyên truyền chống phá đảng. Những giọt nước mắt, những vòng tay ôm, những an ủi vỗ về của các Thiện nguyện viên với các cháu bé tật nguyền kia chẳng có gì là biểu hiện xúi dục của các thế lực thù địch cả thì các bạn có nghĩ  gì không?
Đáng lẽ ra, nhiệm vụ của các bạn phải là phải phát hiện tìm ra những con mọt Nước tham ô hàng triệu đô như vụ PMU 18, vụ in tiền Polyme, đáng lẽ nhiệm vụ của các bạn phải là phát hiện ra những vụ đánh bạc tiền tỷ ở Cần thơ chứ những việc Thiện nguyện kia đâu phải việc các bạn phải tốn công sức tốn tiền ngân sách như vậy. Giám sát những việc Thiện nguyện tốt lành (khác hẳn công việc của các bạn đang làm) và duy trì công việc cho rất nhiều người như các bạn là một khoản chi quá lớn làm giảm đi bát cơm của người nghèo và tăng thêm sự bất bình của xã hội với các bạn.
Sức trẻ của các bạn lẽ ra phải ở nơi biên cương bảo vệ Tổ Quốc chứ đâu phải để làm cái việc dò la những người tử tế như các bạn đã thấy hoặc hè nhau giành giật, khiêng, bắt những người biểu tình yêu nước chống trung Quốc gây hấn bắn giết bộ đội ta ở đảo Gạc ma, bắt bớ dân chài Quảng Ngãi, cắt cáp tàu Việt nam?
Khi tiếp xúc với chúng tôi, các bạn thấy dù thế nào chúng tôi cũng luôn nhìn vào mắt các bạn và nói thật ngay rằng chúng tôi là ai, nói thật những việc chúng tôi làm dù rằng chúng tôi chẳng có trách nhiệm phải nói với các bạn điều đó. Còn các bạn đã phải nói dối khi được hỏi các bạn là ai, phải nói dối những việc các bạn đang làm. Trong sâu xa tâm thức, các bạn chắc cũng không thể không công nhận rằng việc chúng tôi làm là những việc tốt và xấu hổ về những việc các bạn đang làm: Mật thám.
Người ta thường nói: Trâu chết để da, người chết để tiếng. Có thể đến một lúc nào đó khi đến tuổi về hưu hoặc khi như quả chanh đã bị vắt hết nước, trở về cuộc sống đời thường các bạn sẽ nhận được sự thương hại hoặc tệ hơn là sự khinh bỉ của mọi người xung quanh về những việc các bạn đã làm thì các bạn sẽ thấy cuộc đời con người ta sẽ vô nghĩa và đớn hèn biết bao khi sống hoàn toàn không có những việc làm vì tha nhân, vì sự dâng hiến cao đẹp mà  làm việc duy nhất đơn thuần chỉ vì đồng lương dù rằng để tồn tại đồng lương là quý giá.
Trong thời đại ngày nay tôi cam đoan với các bạn mật thám rằng chẳng có ai tự hào khoe ra là đang làm mật thám cả. Đúng hơn là chính các bạn cũng rất ngại ngùng bởi công việc này chẳng đáng để người ta cho là công việc tử tế.
Nếu có bạn nào đó làm mật thám một cách mẫn cán đến nhẫn tâm để mong được cất nhắc lên một vị trí cao hơn nhằm mưu lợi lộc cá nhân thì tôi không cần phải nói với bạn nữa vì những điều tôi nói là vô ích. Với các bạn mật thám làm việc vì miếng cơm manh áo thì các bạn cũng nên bớt thời gian ăn nhậu để đọc sách tìm hiểu xem cuộc đời của các nhân vật mật thám trong toàn bộ lịch sử thế giới đã gặt hái được gì và trả giá ra sao.
Cuối cùng, những điều tôi viết ra đây có thể không khiến các bạn mật thám tức giận mà lại làm cho ai đó vô cùng tức giận thì người đó cũng nên tự hỏi rằng nhân cách con người mình có bằng được với tên mật thám hay không?
Thiện nguyện viên chương trình Sách cho Trẻ em.