Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

VỀ TRƯỜNG PHÁI THƠ “TÂN…CON CÓC” CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU


TRẦN MẠNH HẢO
( Tham luận của TMH gửi cuộc hội thảo :”Nguyễn Quang Thiều trong sự đổi mới thơ Việt Nam đương đại” do Viện Văn học tổ chức sắp tới)

Có thể nói, trong làng báo, làng văn ở Việt Nam hôm nay, Nguyễn Quang Thiều là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất. Về sự đa tài của ông Thiều ( nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch bản điện ảnh, họa sĩ, nhà dịch thuật văn học…) chỉ kém trung tướng Hữu Ước ( nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà điện ảnh, họa sĩ, nhạc sĩ, nhà nhiếp ảnh…)
Riêng về thơ, Nguyễn Quang Thiều đang được các nhà “Thiều học” ca ngợi còn hơn cả Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương; rằng Nguyễn Quang Thiều là “Cây ánh sáng” soi sáng cho nền thơ hiện đại Việt Nam; rằng Nguyễn Quang Thiều là người bẻ ghi cho con tàu thi ca Việt Nam ra với thế giới…
Công bằng mà nói, trong biển cả miên man vô tận của thứ thơ phi truyền thống, phi hình tượng, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi biểu tượng, phi nội hàm, phi truyền cảm…của Nguyễn Quang Thiều, ta vẫn tìm được đây đó một số câu và đoạn thơ hay :
Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó
Nó không tiêu tan
Nó thành con giun đất
Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ
Bò qua bãi tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy ròng ròng
Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi
Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm
Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó
Kiếp này tôi là người
Kiếp sau phải là vật
Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ
Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi.
….
ông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo.
 ….
Mẹ tôi đã già như cát bên bờ – Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi – Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt – Tôi khóc – Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng”
….
Theo tiêu chuẩn tối thượng HAY –DỞ định giá trị thi ca, muốn tìm năm bài thơ hay của Nguyễn Quang Thiều để in vào tuyển tập thơ Việt Nam là điều không thể.
Theo tạp chí chuyên về văn học nghệ thuật: http://www.tienve.org, nơi in tất cả các sáng tác của Nguyễn Quang Thiều, viết về tiểu sử của ông như sau :
Sinh năm 1957 tại Hà Tây. Hiện sống ở Hà Đông. Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia, và dịch giả, đã đoạt nhiều giải thưởng văn học ở Việt Nam.
Ông đã xuất bản nhiều tập thơ, gồm có: Ngôi nhà tuổi 17 (1990); Sự mất ngủ của lửa (1992); Những người đàn bà gánh nước sông (1995); Những người lính của làng (1996); Thơ Nguyễn Quang Thiều (1997); Nhịp điệu châu thổ mới (1997); và Bài ca những con chim đêm (2000). Tập thơ The Women Carry Water (bản Anh ngữ của cuốn Những người đàn bà gánh nước sông) được University of Massachusetts Press xuất bản năm 1997, và được The National Translation Association of America trao giải thưởng vào năm 1998. Thơ của ông đã được dịch và đăng trên rất nhiều tập san văn học trên thế giới.
Ông đã xuất bản 2 tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 tập truyện cho thiếu nhi, và 1 tập tiểu luận. Hai tập truyện ngắn của ông đã được dịch và xuất bản tại Pháp: La Fille Du Fleuve (1997), và La Petite Marchande De Vermaicelles (1998). Ông cũng tham gia vào lĩnh vực điện ảnh và sân khấu, và nhiều kịch bản của ông đã được dựng thành phim.

NGUYỄN QUANG THIỀU NỔI LÊN NHỜ HỮU ƯỚC

“ Nguyễn Quang Thiều nổi lên nhờ Hữu Ước” là kết luận của Hai Xe Ôm ( Phạm Viết Đào) trong bài viết : “ Con bài Nguyễn Quang Thiều trong ván cờ chính trị của Hữu Thỉnh” chúng tôi sẽ dẫn dưới đây. Trước hết, chúng tôi xin trích lời nhà thơ, nhà báo Hữu Việt in trong bài “Nguyễn Quang Thiều rời báo Văn Nghệ như anh kép hát rời sân khấu” in trên http://vietbao.vn như sau :
Ông ( tức Nguyễn Quang Thiều) tiếp tục cuộc chơi của mình, lần này trên An ninh Thế giới cuối tháng. Ông là người chủ chốt lập đề cương và tổ chức thực hiện.
Tờ báo này nổi đình nổi đám một thời gian dài có lẽ nhờ phần đóng góp không nhỏ của Nguyễn Quang Thiều. Còn nhớ, khi chiến tranh Mỹ – Afghanistan xảy ra, vào năm 2001, Thiều đã xung phong sang chiến trường này, và hoạt động như một phóng viên chiến tranh.
Bởi vậy, nhà văn, TBT Hữu Ước đã có những cách đối xử rất “anh Hai” với ông. Chính xác hơn, đây là cách ứng xử của một người anh với thằng em mà mình rất yêu quý. Cho dù có chuyện gì xảy ra thì Nguyễn Quang Thiều vẫn là “công thần” của ANTG.
Năm 2003, ông không tham gia ANTG cuối tháng nữa, nhưng hàng tháng, ông vẫn nhận được một khoản tiền thù lao. Khi ông cố từ chối thì nhà văn Hữu Ước đã nói, đại ý: Đây là tiền “bản quyền tác giả” ANTG cuối tháng của ông. Ông phải nhận nó khi nào Hữu Ước còn là TBT và tờ ANTG cuối tháng còn xuất bản…
“Trước khi về báo Văn Nghệ, đại khái người ta chỉ biết ông tốt nghiệp đại học ở Cuba và vào thời điểm ấy ông là một trong số hiếm hoi các nhà văn trẻ biết tiếng Anh khá.
Ông làm việc ở một cơ quan quan trọng nào đó, nhưng khi ra ngoài công khai, giấy tờ chính thức của ông là cán bộ Bộ Y tế. Ít ai ngờ, nhà thơ trẻ ấy sau này lại trở thành một người làm báo – và viết báo.”
Đây là từ điển mạng http://vi.wikipedia.org  viết về Nguyễn Quang Thiều:
Ông được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo tương đối phổ biến ở Việt Nam hiện nay là tờ An ninh thế giới cuối tháng và cảnh sát toàn cầu[5]
Nhà thơ Phạm Khải trên tờ Công an nhân dân viết về Nguyễn Quang Thiều như sau:
Với nhà văn Hữu Ước, Nguyễn Quang Thiều nhớ lại lần anh để xảy “tai nạn nghề nghiệp” khi phụ giúp ông làm tờ An ninh thế giới Cuối tháng: Nhà văn Hữu Ước, mặc dù – nói như Nguyễn Quang Thiều “nổi tiếng là người thẳng tính và nóng tính”, song lúc ấy “ông chỉ hút thuốc lào vặt hết điếu này đến điếu khác. Những lúc ấy tôi có cảm giác như ông đã làm xong mọi việc mà cuộc đời ông phải làm hoặc là trong cuộc đời này ông chẳng có việc gì phải làm cả. Chỉ có hút thuốc lào và uống rượu trong im lặng”.
Từ đây, Nguyễn Quang Thiều có những khái quát về bản lĩnh của ông nhà văn đang giữ cương vị Tổng biên tập: “Bây giờ tôi hiểu ra rằng: Có những lúc ông rơi vào những hoàn cảnh khó khăn như vực thẳm, như núi cao mà ông vẫn thanh thản đối mặt và thanh thản đi qua với một thái độ “chẳng có gì quan trọng”.
“Chẳng có gì quan trọng” không phải là không có gì quan trọng mà bởi trong lòng ông ngập tràn lòng tin và thanh thản chấp nhận mọi điều có thể xảy ra như ông đã từng chấp nhận”.
( Nhân đọc tập sách “ Người” của Nguyễn Quang Thiều và Lê Thiết Cương – Phạm Khải)
Trên trang mạng của Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, nhà báo Mai Hồng viết về Nguyễn Quang Thiều như sau :
“Nhà văn, Thiếu tướng Hữu Ước có mặt tại triển lãm cười thật tươi mà nói rằng: “Lê Thiết Cương và Nguyễn Quang Thiều là những người bạn, người em của tôi.”
( Bài Chung niềm yêu thương với Người- Mai Hồng)
Trên trang mạng của báo Công an nhân dân, nhà báo Duy Hiển viết về Nguyễn Quang Thiều như sau :
Nói về những kỷ niệm làm tờ An ninh thế giới cuối tháng (sau thêm số giữa tháng), nhà thơ Nguyễn Quang Thiều kể: Khi tờ An ninh thế giới hằng tuần đã có vị thế lớn, anh Hữu Ước quyết định làm một tờ báo sang trọng hơn và chúng tôi đã giúp anh thực hiện quyết định đó. Đến nay, tờ An ninh thế giới cuối tháng (giữa tháng) vẫn giữ vị trí đáng nể trong số vô vàn các ấn phẩm báo chí…”
( Bài : Gặp mặt những người làm nên thương hiệu An ninh thế giới và Văn hóa Văn nghệ công an- Duy Hiển)
Nhà thơ đại tá công an Hồng Thanh Quang viết về Nguyễn Quang Thiều trên tờ Công an nhân dân như sau :
Tổng biên tập Hữu Ước giao cho nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (người danh chính ngôn thuận biên chế thuộc báo Văn nghệ nhưng từ lâu đã gắn bó với ANTG, được Tổng biên tập biệt đãi vừa như em, vừa như khách) và tôi phác thảo đề cương tờ báo mới. Khi đã thống nhất được những chuyên mục chính của báo, anh lập tức “bật đèn xanh” cho ra đời một ban biên tập do anh trực tiếp nắm.
( Bài : “Anh ninh thế giới cuối tháng- 5 năm là bấy nhiêu tình-Hồng Thanh Quang)
Một bài trên tờ Lao động viết về chuyến đi thực tế cuộc chiến tranh ở Afghanistan của đại tá công an Nguyễn Như Phong và Nguyễn Quang Thiều như sau :
Đây là sáng kiến của Hữu Ước, Tổng Biên tập báo An Ninh Thế Giới và Văn Nghệ Công An Nhân Dân. Cái đáng kể nhất là tài chính, cũng do báo này lo hết.
Trích bài : (hai nhà báo đến với chiến trường Afghanistan)
Nhà thơ đại tá công an Hồng Thanh Quang viết trên tờ Công an nhân dân như sau :
Tôi không rõ anh đã phải uống hết bao nhiêu ly rượu nhưng anh đã nghĩ ra được một độc chiêu: biết là kiểu gì Mỹ cũng sẽ tấn công Afghanistan (lúc ấy đang do Taliban cai quản), anh cử ngay hai cây bút vào hàng cự phách của toà soạn là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Phó Tổng biên tập ANTG Nguyễn Như Phong sang Pakistan với nhiệm vụ làm sao thổi được không khí nóng bỏng từ đó lên những trang báo các ấn phẩm của ANTG, cả tờ tuần lẫn tờ cuối tháng.”
( bài : ANTG cuối tháng-5 năm là bấy nhiêu tình-Hồng Thanh Quang)
(DVT.vn) – 9 giờ ngày 5/2, Hội Nhà văn Việt Nam đã khai mạc Liên hoan Thơ châu Á – Thái Bình Dương lần thứ nhất và Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 10. Đây là hình ảnh Nguyễn Quang Thiều trong ngày hội liên hoan thơ châu Á Thái Bình Dương lúc 9 giờ sáng ngày 5/2/2012 tức 14 tháng Giêng âm lịch, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam đã long trọng khai mạc Liên hoan Thơ châu Á – Thái Bình Dương lần thứ nhất và Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 10.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (trái), Trung tướng nhà văn Hữu Ước cùng nghệ sĩ Thu Hà và ông Nguyễn Sơn.

Bài : “Liên hoan Thơ châu Á – Thái Bình Dương và Ngày Thơ Việt Nam”-

Chủ nhật, 05/02/2012 19:35
Trên mạng của nhà văn Phạm Viết Đào  trong bài “CON BÀI NGUYỄN QUANG THIỀU: TRONG VÁN CỜ CHÍNH TRỊ CỦA HỮU THỈNH ?” có đoạn viết như sau :
Nguyễn Quang Thiều một thời đầu quân cho Hữu Ước làm tờ An ninh thế giới cuối tháng
Còn Nguyễn Quang Thiều nổi lên là nhờ Hữu Ước và Vietnamnet chứ nếu xem xét dưới góc văn chương thì Thiều cũng chưa chứng minh được gì nhiều trong những năm gần đây
“Quan Văn” Thiều vốn là một chiến binh có kinh nghiệm và khả năng chinh phạt thương trường qua thức thách của những việc làm tại làm 2 tờ báo Vietnamnet và An nin cuối tháng; hiện nay Thiều đang làm tờ Cảnh sát Hình sự”
Khi làm An ninh cuối tháng, Cảnh sát Hình sự, Thiều chỉ lo phần bài vở còn phần hậu cần quân lương đã có Hữu Ước lo
Trúng cử được vào Ban chấp hành và chức vụ Phó Chủ tịch, rất nhiều người thấy ngộ khi nhìn thấy Thiều ngay lập tức xuất hiện trên báo Công an nhân dân với trang phục Comple cà vạt
 Nhìn nét mặt Thiều quả rất ngộ: quắc thước, mắt ngước nhìn lên như Stalin, như Gorbachop nhưng thần thái thì vẫn chưa dấu được cái đuôi sĩ; tức đuôi hề…
Trong 5 năm gần đây, giới văn chương không thấy năng lực văn chương của Thiều phát tiết gì nhiều”
Trên trang mạng http://vnexpress.net có bài viết về những lời ca tụng của Nguyễn Quang Thiều với Hữu Ước như sau :
24 chân dung bằng chữ của Nguyễn Quang Thiều và 10 bức chân dung bằng đường nét và màu sắc của Lê Thiết Cương hội tụ trong triển lãm mang tên “Người”, khai mạc tại Gallery 39 Lý Quốc Sư, Hà Nội, chiều 27/10.
Cuốn sách của Nguyễn Quang Thiều tập hợp 24 bài viết về những nhân vật nổi tiếng trong giới văn nghệ mà anh từng gặp gỡ như: Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Bảo Ninh, Hữu Ước…
( Bài : Nhà thơ và họa sĩ vẽ “ Người”)
Trên website http://vietbao.vn Nhà thơ, nhà báo Hữu Việt đã hé mở VÙNG TỐI NGUYỄN QUANG THIỀU, từ VÙNG TỐI hết sức bí mật này, ông Thiều được những cơ quan chức năng siêu bí mật làm giả hồ sơ, biến ông từ một nơi CƠ QUAN QUAN TRỌNG- hoạt động bí mật sau khi học ở Cu Ba về VỚI MỘT LÝ LỊCH GIẢ để ông ra công khai,  rằng ông Thiều từng làm ở cơ quan y tế, nay được chuyển sang hoạt động văn học nghệ thuật như sau :
Trước khi về báo Văn Nghệ, đại khái người ta chỉ biết ông tốt nghiệp đại học ở Cuba và vào thời điểm ấy ông là một trong số hiếm hoi các nhà văn trẻ biết tiếng Anh khá.
Ông làm việc ở một cơ quan quan trọng nào đó, nhưng khi ra ngoài công khai, giấy tờ chính thức của ông là cán bộ Bộ Y tế. Ít ai ngờ, nhà thơ trẻ ấy sau này lại trở thành một người làm báo – và viết báo.
Trích bài : “Nguyễn Quang Thiều rời báo Văn Nghệ: Nỗi buồn của anh kép rời sân khấu”- nhà thơ, nhà báo Hữu Việt”

QUAN ĐIỂM THI CA CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU

Trong bài viết : “ Trong khu vườn của người đàn bà tên Thúy”, như một định đề nghệ thuật, một xác tín thi pháp, một ẩn dụ tiêu chí thi ca, một định hướng thi pháp, một tuyên ngôn thơ thông qua trường hợp sáng tác của nhà thơ nữ trẻ Đinh Thị Như Thúy, Nguyễn Quang Thiều trang trọng đến rưng rưng thơ hóa lý luận, như sau :
“Nhưng quan niệm về nghệ thuật thơ ca của tôi đang tiến đến điểm cuối của một quan niệm mà tôi đã từng đọc, đã từng chống đối, đã nhìn lại, đã bị thuyết phục và trở thành đồng nhất. Đó là: ngôn ngữ thơ ca gần với tiếng nói đời thường nhất
….
Sự quyến rũ của ngôn ngữ không phải là sự tầng tầng lớp lớp những nghĩa và những cấu trúc đầy tính hình thức mà chúng ta cố tạo ra cho nó hay tìm cách gán ép cho nó. Mà sự quyến rũ của ngôn ngữ là khi nó bị ném thẳng vào bức tường của sự thật và ngay lập tức bật trở lại như chúng ta ném một quả bóng.
…Với cách nhìn đó, Ðinh Thị Như Thuý là một trong không nhiều những nhà thơ tôi đọc đi đọc lại. Đinh Thị Như Thuý là nhà thơ của ai và thuộc thế hệ nào của thơ ca Việt Nam?
….
Tôi đọc tất cả những tập thơ Đinh Thị Như Thuý đã xuất bản. Có những bài thơ của chị tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Có những lần đọc nhưng không chú tâm để hiểu và cũng không lợi dụng những điểm tương đồng để tự tạo những cảm xúc cho mình. Đọc như đi qua một cánh đồng, một dòng sông hay một thị trấn mà không có mục đích. Và chính xác hơn, đọc như đứng trong một ngôi nhà đã mở hết các ô cửa, không có ai ở đó, không có bất kỳ sự chỉ dẫn nào, mà đứng với một sự mở bốn phía để bắt đầu cuộc trò chuyện. Sự đọc ấy giống như người ta vẫn đi trên con đường từ nhà ra cánh đồng và trở về trong suốt cuộc đời mình. Và hành trình liên tục như sự tự nhiên của đời sống này làm cho ta một ngày không thể rời xa được.Nhưng trong bài viết này, tôi lấy bài thơ dài Nơi ngày đông gió thổi để trò chuyện. Mà thực ra, tôi cũng không dùng những câu thơ trích để nói về thơ chị hay con người chị. Đó thực sự chưa hẳn là mục đích của bài viết này. Tôi nói về thơ chị như bấy lâu nay những bài thơ của chị vẫn chập chờn đâu đó. Nó nhiều lúc chẳng rõ ràng trong tôi. Nó luôn luôn tạo ra một cảm giác “ở đâu đấy” quanh tôi. Vừa gần gũi vừa xa lạ. Vừa đóng lại và vừa mở ra. Vừa như những bài thơ có khả năng giấu đi mọi phô diễn của kỹ thuật ngôn từ và vừa như là sự liên tiếp của những hành động vụng về nhưng chính xác đến không tưởng. Nhưng có một điều bất biến kể từ khi tôi đọc tập thơ đầu tiên cho đến những bài thơ mới nhất của chị. Điều bất biến đó là tôi chưa bao giờ đi ra khỏi ý nghĩ của mình khi đọc những câu thơ của chị — ý nghĩ về người đàn bà mang tên Thuý chỉ sống trong một khu vườn từ lúc sinh ra đến bây giờ và chắc chắn đến giây phút chị rời bỏ sự hiện hữu của chị trên thế gian. Nhưng quả thực, ý nghĩ đó không phải là trí tưởng tượng và tồi tệ hơn nữa nếu Ċó lại lại sự suy đoán. Ý nghĩ ấy là một hiện thực minh bạch đến kỳ lạ.
Và trong khu vườn nhỏ của mình, người đàn bà tên Thuý đã lúc nào cũng mở to đôi mắt nhìn đời sống này như một đứa trẻ nhiều đau ốm và sợ hãi và hoảng sợ và khát vọng. Tất cả những ngơ ngác, những đau ốm, những hoảng sợ, những tuyệt vọng và những khát vọng của người đàn bà tên Thuý là của chúng ta. Những trạng thái ấy chính là đức hạnh thực sự của con người. Những điều đó đẩy chúng ta trở lại nguồn gốc đời sống của con người. Khi chị viết: Người đàn bà chăm chú dõi tìm trái đỏ trong cây là tôi hiểu chị viết về những người đàn bà trong mùa thu hoạch cà phê. Nhưng ánh sáng của câu thơ đã rời khỏi thân xác của một hiện thực đen tối như ánh lửa rời thân xác của một khúc gỗ. Khó có thể tìm một hình ảnh nào giản dị hơn và đẹp hơn câu thơ này khi viết từ hiện thực thô lược ấy. Nó giản dị đến mức làm cho rất nhiều các nhà thơ có thể cười khẩy với tôi. Điều đó thật hiển nhiên và thật dễ hiểu. Nhưng để viết câu thơ đó, chị đã mở đôi mắt đến không còn khả năng mở hơn nữa và nhìn thẳng vào cái trái đỏ trong vòm lá thẫm tối kia với một lượng thời gian bằng đúng tuổi đời chị. Cái nhìn đó giống như người ta điều chỉnh ống kính máy ảnh vào một điểm để cuối cùng để nó hiện lên sắc nét như một sự tinh kết cao nhất. Hình ảnh ấy ngày từ đầu đã dựng lên trong tôi hình ảnh một Nữ thần ái tình đang bay trong vòm trời màu lục và vươn những ngón tay mảnh rẻ và run rấy để chạm vào ngôi sao lấp lánh kia. Chị không áp đặt tình yêu những người lao động vào tôi, không lên tiếng với tôi về sự khổ hạnh của những người đàn bà vất vả và ngèo đói, chị không được phép làm thế vì chị là một nhà thơ.”
Và tiếp tục vào hai mươi đợt, sẽ đọc được bài thơ dài miên man “ Nơi ngày động gió thổi” của Đinh Thị Như Thúy, hay đánh vào http://google.com tiêu đề “ Nơi ngày đông gió thổi Tiền vệ” sẽ đọc được bài thơ dài này)
Với Nguyễn Quang Thiều, sau bao nhiêu năm tím kiếm, vật vã, phản biện, day dứt, cuốu cùng ông mới chợt ngộ ra chân lý nghệ thuật nói chung, chân lý thi ca nói riêng là làm sao cho  : “NGÔN NGỮ THƠ CA GẦN VỚI TIẾNG NÓI ĐỜI THƯỜNG NHẤT”. Tưởng chuyện gì ghê gớm, hóa ra là tiêu chí của các trào lưu hiện thực trong nghệ thuật đã ra đời từ rất sớm, quyết đưa thi ca trở về gần với ngôn ngữ thường nhật, ngôn ngữ bình dân, mà một đứa trẻ học cấp hai ở Việt Nam đã học : tính hiện thực của văn học, của thi ca.
Về chuyện “ ngôn ngữ thi ca gần với ngôn ngữ đời thường” thì từ thời cổ đại, khi chưa có chữ viết, nhân loại đã sáng tạo ra dòng VĂN CHƯƠNG TRUYỀN MIỆNG là ca dao tục ngữ, như ca dao Việt Nam hay Kinh Thi của Trung Quốc, kinh Vệ đà Ấn độ…dân gian đã thực thi nhiệm vụ mà Nguyễn Quang thiều vừa đặt ra : “ đưa thi ca về gần với tiếng nói thường nhật”.
Khi nhân loại có chữ viết, dòng văn chương bác học xuất hiện, những nhà lập thuyết nghệ thuật đầu tiên như Aristote thề kỷ thứ bốn trước công nguyên, với cuốn “ Thi pháp” ( Poetics) đã đưa ra một khẩu hiện tuyệt vời cho Thi Ca : “ Văn học hay thi ca là sự mô phỏng ( phản ánh) cuộc sống” cổ xúy cho việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ ( nhưng phải chọn lọc)  đó sao ?
Nhà lập thuyết văn học cổ đại Ấn độ là Bharata trong cuốn “ Natyasastra” ( sách dạy lý thuyết sân khấu) cũng lấy tiêu chuẩn chân thực, đưa ngôn ngữ bình dân lên kịch, lên thơ nhưng phải mài giũa, mở ra ba  thế giới là thế giới thực tại, thế giới tâm linh và thế giới thần linh, gọi là cảm thức linh hồn của kịch thơ( bi hài kịch) đó sao ?
Thế kỷ thứ sáu sau công nguyên thời Ngụy-Tấn, nhà lý luận văn nghệ đầu tiên của Trung Quốc là Lưu Hiệp, trong chương “ Nguyên đạo” mở đầu cho tác phẩm “ Văn tâm điêu long” phê phán thứ nghệ thuật hoang đường, đưa nghệ thuật thi ca từ mộng xuống hòa với thực, tuy văn phải đẹp như vảy rồng( điêu long) nhưng xuất phát từ Tâm ( Văn tâm), mà Tâm thì bắt nguồn từ thực đó sao ?
Nói chung, yêu cầu của nhà thơ, nhà thi pháp Nguyễn Quang Thiều vừa phát hiện ra được ông coi như sẽ chân động thi đàn, tựu trung đã có từ thời cổ đại. Về việc này, cũng giống như ông Thiều vừa phát hiện ra một chân lý và vội công bố với toàn thế giới rằng : mặt trời cư ngụ nơi ban ngày, mặt trăng cư ngụ nơi ban đêm vậy.
Nhưng Nguyễn Quang Thiều đã vượt qua tiêu chuẩn “đưa thi ca xuống GẦN với ngôn ngữ thường nhật” bằng bước “ đại nhảy vọt” như sau : “
“Sự quyến rũ của ngôn ngữ không phải là sự tầng tầng lớp lớp những nghĩa và những cấu trúc đầy tính hình thức mà chúng ta cố tạo ra cho nó hay tìm cách gán ép cho nó. Mà sự quyến rũ của ngôn ngữ là khi nó bị ném thẳng vào bức tường của sự thật và ngay lập tức bật trở lại như chúng ta ném một quả bóng.”
Từ đây, Nguyễn Quang Thiều đã làm cuộc đại cách mạng văn hóa thi ca : đơn nghĩa hóa sự đa nghĩa của thi ca từ trước đến giờ. Tức là làm thơ là nói như người ta nói hàng ngày, không cần chọn lọc, không cần trau chuốt, không cần nghệ thuật, không cần ẩn nghĩa, hàm nghĩa, tức xóa sổ nghĩa bóng của thi ca, đả đảo đa ngữ nghĩa thi ca, đả đảo khẩu hiệu “ thi tại ngôn ngoại” của cổ nhân, đả đảo các biểu tượng, ẩn tượng, hàm tượng thi ca. Thơ với Nguyễn Quang Thiều là có gì nói toẹt ra ngay, hoan hô nghĩa đen, nghĩa đen tuyệt đối, xử tử bọn phản động HÀM NGÔN, bọn lên đồng có tên là NGHĨA BÓNG.
Làm thơ, với Nguyễn Quang Thiều là hành vi ném thẳng NGÔN NGỮ vào BỨC TƯỜNG SỰ THẬT NHƯ NÉM MỘT QUẢ BÓNG, nó sẽ bật trở lại ngay lập tức một quả bóng : “ như chúng ta ném một quả bóng”. Nghĩa là, sự vật được phóng chiếu qua đôi mắt, qua tư tưởng, tâm hồn nhà thơ, bật ra y nguyên như hình ảnh ban đầu nhà thơ ngó thấy. Thơ đối với Nguyễn Quang Thiều là nhìn thấy sự vật tồn tại, hoạt động như thế nào thì viết ra như thế, thật hơn cả máy chụp hình. Chẳng hạn, khi nhìn thấy con mèo đen leo lên lưng một con mèo trắng, ông Thiều sẽ viết y như lý luận thơ phi thơ ông vừa công bố với thế giới mà rằng :
Một con mèo đen bò lên mái nhà sau khi ôm bầu trời gào thét
Nó thấy một con mèo trắng cũng gào như cha chết
Ôi tình yêu khởi thủy từ những tiếng gào
Chú linh miêu của thần linh bước qua mái nhà lợp bằng ngói nâu quê hương ta
Dễ sợ chưa cả loài người ơi
Hai con miu miu ngừng gào im lặng như chú kiến đang ngủ
Chúng leo lên lưng nhau như leo lên chiếc thang hạnh phúc
….
Viết thơ như thế này, trước Nguyễn Quang Thiều hàng mấy trăm năm, tác giả (hay tập thể tác giả) đã làm nên bài “thơhay” là “Bài thơ con cóc”, sáng tác ra phương pháp “tuyệt đối chân” trong thi ca mà Nguyễn Quang Thiều vừa khám phá :
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đấy
Con cóc ngồi đấy
Con cóc nhảy đi
Xin quý bạn đọc tham khảo bài viết ca ngợi bài thơ này của nhà phê bình văn học, giáo sư Nguyễn Hưng Quốc : “Nguyễn Hưng Quốc – thơ con cóc, một bài thơ hay” (http://luutrutailieuhoctap.wordpress.com/2011/08/21/nguy%E1%BB%85n-h%C6%B0ng-qu%E1%BB%91c-th%C6%A1-con-coc-m%E1%BB%99t-bai-th%C6%A1-hay/)
Thi pháp Nguyễn Quang Thiều là thi pháp phản truyền thống : truyền thống cho thơ phài đa nghĩa thì ông Thiều quyết làm thơ đơn nghĩa; truyền thống cho thơ phải kiệm lời thì thơ ông Thiều rất lắm lời; truyền thống cho thơ phải hàm súc thì ông Thiều làm loài thơ lạnh tanh, xóa mọi hàm ngôn ( tâm hồn lạnh tanh máu cá/ nhiệt tình xuống quá độ âm – Chế Lan Viên); truyền thống cho thơ phải êm tai, phải có nhạc tính thì thơ ông Thiều chủ trương phải gắt như mắm tôm; truyền thống cho thơ phải có âm dương điều hòa trong ngữ nghĩa thì ông Thiều chủ trương thơ phải độc âm hay độc dương, không có thể đưa chủ nghĩa hài hòa của đồng chí Hồ Cẩm Đào vào đây được à ghen (!)
Tuy cùng thi pháp NÓI TOẸT RA như trường thơ Con cóc, nhưng Nguyễn Quang Thiều ( có lẽ) còn phải cách tân TRƯỜNG THƠ CON CÓC thêm một lần nữa là tuyệt đối cấm kiệm lời trong thơ; rằng thơ thì phải rậm lời, lắm lời, lắm điều, cần phải kéo dài câu thơ ra như kéo dài kẹo kéo. Có lẽ, rồi đây, chủ soái trường phài thơ TÂN CON CÓC , sẽ sửa lại bài thơ “tuyệt bút” Con cóc  theo “thi pháp kẹo kéo” của ông cho hợp với môn phái TÂN HÌNH THỨC – TÂN CON CÓC mà ông vừa sáng tạo ra.
 Kẻ viết bài này xin phép học theo lối thơ ông Thiều mà thử múa rìu qua mắt thợ, chuyển bài thơ Con cóc từ cổ điển sang trường phái HẬU HIỆN ĐẠI-TÂN CON CÓC của ông Thiều, xem ông có hài lòng hay không về món “TÂN …CON CÓC”, tức thơ con cóc hiện đại, như sau :
“Con cóc ngồi trong hang tư duy về thế giới sao mày có mặt nơi đây
Con cóc bò ra ngó lên vũ trụ thắc mắc : tồn tại hay không tồn tại
Con cóc nhảy đi tìm hư vô, tìm sự cô đơn vô nghĩa có tên là vũ trụ
Con cóc nhảy đi cũng như không nhảy vì sự giới hạn không cho phép nó vô hạn
Con cóc bèn tọa thiền ngồi im thít thít như cục thịt đông của cái thế giới mà lửa cũng đóng thành băng tuyết
Con cóc nhảy vào hư vô mà cái hang chính là bầu trời, thi ca ơi, thượng đế ơi trả ta con cóc siêu hình con cóc nhân văn
Chúng tôi xin thông báo một điều mà chắc ông Nguyễn Quang Thiều sẽ giật thót : trước ông mấy chục năm, thi hào Xuân Diệu ( Thơ thơ, Gửi hương cho gió”) sau khi được giác ngộ cách mạng từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn trong thơ, đi theo tiêu chí văn nghệ phục vụ chính trị, đã cách tân bài thơ con cóc trước cả Nguyễn Quang Thiều. Thực ra, chủ nghĩa hậu hiện đại tân thời con cóc trong thơ phải lấy Xuân Diệu làm tiên sư chứ không phải ông Thiều như ông đang nhầm lẫn.
Chúng tôi nhớ cách đây  hơn 50 năm, vào đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước, lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng tôi đã tập tành làm thơ theo khẩu hiệu “ duy thật” của Xuan Diệu : Chân chân chân – thật thật thật, với “thi pháp con đỉa” lấy câu thơ mà đi đâu Xuận Diệu cũng bình là một câu thơ hay nhất của đời ông làm chuẩn mực thi ca : “ CON ĐỈA BÒ QUA MÔ ĐẤT CHẾT”…Cũng như Nguyễn Quang Thiều lấy câu thơ của Đinh Thị Như Thúy : “
Khi chị (Đinh Thị Như Thúy) viết câu thơ : “NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂM CHÚ DÕI TÌM TRÁI ĐỎ TRONG CÂY” là tôi hiểu chị viết về những người đàn bà trong mùa thu hoạch cà phê. Nhưng ánh sáng của câu thơ đã rời khỏi thân xác của một hiện thực đen tối như ánh lửa rời thân xác của một khúc gỗ. Khó có thể tìm một hình ảnh nào giản dị hơn và đẹp hơn câu thơ này khi viết từ hiện thực thô lược ấy. Nó giản dị đến mức làm cho rất nhiều các nhà thơ có thể cười khẩy với tôi. Điều đó thật hiển nhiên và thật dễ hiểu. Nhưng để viết câu thơ đó, chị đã mở đôi mắt đến không còn khả năng mở hơn nữa và nhìn thẳng vào cái trái đỏ trong vòm lá thẫm tối kia với một lượng thời gian bằng đúng tuổi đời chị. Cái nhìn đó giống như người ta điều chỉnh ống kính máy ảnh vào một điểm để cuối cùng để nó hiện lên sắc nét như một sự tinh kết cao nhất. Hình ảnh ấy ngày từ đầu đã dựng lên trong tôi hình ảnh một Nữ thần ái tình đang bay trong vòm trời màu lục và vươn những ngón tay mảnh rẻ và run rấy để chạm vào ngôi sao lấp lánh kia
( đã dẫn)
Câu  văn trần thuật đơn giản, tầm thường “ Người đàn bà chăm chú dõi tìm trái đỏ trong cây” của Đinh Thị Như Thúy chợt lóe sáng trong đầu nhà lập thuyết thi ca Nguyễn Quang Thiều một ẩn dụ triết học thi thiên để sinh ra trường phái thơ “ Tân…con cóc”, quả tình là điều bí hiểm mà người trần mắt thịt chúng ta hầu như chưa lĩnh hội được. Như thế này, chắc sẽ có hàng ngàn nữ thi hữu trẻ bắt chước câu văn đơn giản : “ Người đàn bà chăm chú dõi tìm trái đỏ trong cây” mà ông Thiều cho vào hàng câu thơ hay kiệt xuất, để xuất hiện hàng nghìn sự kiện văn học khác làm chấn động thế giới; ví như :” Em gái mê mẩn vọc đất săn tìm một củ khoai lang tím sót”, “ Mẹ ngước mắt lên bầu trời tìm xem có ngôi sao nào con của mình không?”, “ Anh đi đâu mà không đi vô đường làng em xem hội”…
Bắt chước Xuân Diệu xưa dùng câu văn trần thuật thô thiển rồi hoang tưởng gọi là thơ : “ CON ĐỈA BÒ QUA MÔ ĐẤT CHẾT” để tạo ra trường thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa, nay Nguyễn Quang Thiều cũng dùng một câu văn trần thuật thô thiển của Đinh Thị Như Thúy : “ NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂM CHÚ DÕI TÌM TRÁI ĐỎ TRONG CÂY” làm hứng khởi cho nguồn sáng tạo ra thi pháp “TÂN…CON CÓC” của mình. Chỉ có điều, Nguyễn Quang Thiều đã thó thi pháp này của Xuân Diệu.

TRƯỜNG THƠ “ TÂN CON CÓC” ĐANG LÀM CHỦ THI ĐÀN

Là người chủ soái của trường thơ “ Tân con cóc”, tất nhiên Nguyễn Quang Thiều hằng làm gương sáng cho các thi hữu noi theo. Chúng tôi xin dẫn ra mấy bài thơ theo trường phái “ Tân con cóc” của ông Thiều để bạn đọc kiểm chứng:
Trích bài thơ” H. đang về nhà” của Nguyễn Quang Thiều :
Phía trên những vòm lá bất ổn
Treo một bầu trời
Những con chim vừa bay
Vừa xé rách những lông vũ
Và một con khóc
Và một con không đập cánh
Trôi tựa đám mây theo chiều gió
Và một con khác ngủ
Và con bay cuối đàn
Không nói gì
Các từ ngữ ( sáo) hay motif ( cải lương) được lặp đi lặp lại trong thơ Nguyễn Quang Thiều :
“em ung thư vú”, “thân xác em”, “ điên dại”, “ da thịt”, ( khóc : con mèo khóc, anh khóc, em khóc, chiếc gối khóc, cái chăn khóc, con voi khóc, con kiến khóc, con rệp khóc, giời khóc, chim khóc, bướm khóc, một tỉ cái cùng khóc trong thơ NQT)
“chiếc giường”, “bộ phận sinh dục”,”loạn luân”, “con chó đái”,”thủ dâm”, bán dâm”,”trần truồng”, “khỏa thân trong giường”, “làm tình ban ngày”, “ kỳ vĩ”, “tinh khiết”, “ ngập tràn”, chuyển động”, mộng du”, “miên man”, “người đàn bà tội lỗi”, “” ác mộng”, “ vô vọng”, trống rỗng”…
Bài thơ : “Những công việc của tháng mười một” của Nguyễn Quang Thiều :
“Cuối cùng ngươi cũng phải cất giọng, hỡi những lừa, lạc đà, những ngựa của con đường vô định
Những sư tử, những báo gấm, những hổ của rừng mang dáng vẻ kỳ vĩ đang mục ruỗng từ bên trong
Những dê, những chim ưng, những ong của mùa đông khan hiếm phấn hoa
Những chim non của tổ chim xác xơ vì gió, những bướm của những cái kén thẫm tối
Những cá của nước xiết, những côn trùng của lá mục
Và những chúng ta của ngôn từ chết mai táng trong thân xác chuyển động
Không thể nào còn nghe thấy lời của tháng Mười vừa mới lướt trên những cái lưỡi ướt và nóng
Tháng Mười Một mạnh hơn tất cả bởi sự trần trụi hơn cả những bộ xương bò nấu phở
Chưa có chút dấu vết gì của tháng Mười Hai. Đừng lục tìm trong cổ thư
Lưỡi dao sự thật của tháng Mười Một rạch một đường dọc những cái lưỡi phản bội
lại những ngôn từ nổ ra từ đó với một cái bóng hoang tưởng rướn chạy
Kìa những cái cây lộng lẫy và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm
Và một kẻ đang gắng sức tìm lối đến Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên
Bởi gã bị đôi giày mới mua ở cửa hiệu bán đồ Trung Quốc xoá mất đôi mắt
Và sự nhầm lẫn tồi tệ khi đưa tay lần tìm tháng Mười Hai theo thứ tự của số đếm
Từ thế gian tội lỗi và lú lẫn đến Thiên đường không phải là những bậc cầu thang ốp bằng loại đá Tây Ban Nha gã lựa chọn
Gã không phải là một kẻ điên. Gã làm âm bản của chúng ta. Một lần nữa
Chúng ta lại không nhận ra một sự thật là không có cái gì gọi là tháng Mười Hai lúc này
Và những công việc của tháng Mười Một vẫn tiếp tục cho đến khi bắt đầu một lối rẽ
11/2007
Bài thơ: “Hoa tiêu” của Nguyễn Quang Thiều :
 Thư gửi một người đã chết
 hãy nhắm mắt và đặt từng bước chân như đặt từng quân cờ
nếu mở mắt anh sẽ chẳng thể nào đi qua cái quảng trường ấy được
chúng sẽ lao vào anh — những kẻ rồ dại của thế kỷ trên xứ sở chúng ta
hãy đi thật nhẹ và tự đọc bản thảo cuốn sách anh viết trong sợ hãi mê dại
một con rắn rúc vào đám tóc anh và nằm phục cái lưỡi anh lộ ra
nó muốn giết anh khi đơn âm đầu tiên của anh phát nổ
hãy rẽ sang bên trái. Có nghe thấy tôi nói không. Nhưng đừng mở mắt
chỉ hé mở một lần anh sẽ suốt đời không dám bước thêm một bước
anh có nhớ cái cây ở ngã tư đường nơi có một kẻ đi theo anh
và gã viết một con số vào chiếc sổ nhỏ hơn lòng tay của gã
hãy rẽ trái một lần nữa. Anh không nhìn thấy tôi đâu. Vì thế đừng ngoái lại
và đừng mở mắt. Phía trước có rất nhiều kẻ đang lao tới nhưng chúng sẽ không đâm vào anh
chúng vẫn nghĩ anh là một gã mù và chúng sẽ không tức tối vì nghĩ anh cản đường chúng
hãy rẽ trái một lần nữa. Chúng nhổ nước bọt trước mặt anh. Nhưng đừng cho chúng biết anh đã nhìn thấy
chúng phóng một cú đấm gió về phía mặt anh. Đừng giật mình. Anh phải làm như là một gã mù thực sự
nghĩa là anh không nhìn thấy gì kể cả khi một người yêu dấu của anh đang đứng khóc trước anh
nếu anh mở mắt ra, dù mở giống một cái chớp mắt, chúng sẽ rú lên
trong sự khoái trá chúng đánh mất từ lâu giờ tìm lại được
với bằng chứng là anh đã mở đôi mắt của mình
và sự khoái trá ấy chỉ ăn một thứ thức ăn là máu
tôi vẫn đứng ở nơi anh xuất phát. Tôi không hề thay đổi dù một cái nhích chân
tôi đang dõi theo anh với đôi mắt mở không được phép nhắm lại
dù cái khoảnh khắc nhắm mắt ấy chỉ bằng 1/10 thời gian của một cái chớp mắt
khoảng thời gian ấy đủ cho anh bị nghiền nát
anh lại phải rẽ trái một lần nữa. Đừng dừng lại ngờ vực, và chuẩn bị rẽ trái một lần nữa
tôi đã thấy anh cố giấu bước chân lưỡng lự. Anh cố giấu sự nghi ngờ
nhưng tôi vẫn nhận ra bởi cái nuốt nước bọt của nặng nhọc và khó khăn anh.
nào, chuẩn bị rẽ thêm lần nữa. Nhưng vẫn là rẽ trái. Chỉ có rẽ trái. Đấy là lần rẽ trái cuối cùng
và bây giờ anh hãy mở mắt ra
thị xã Hà Đông, đêm 4/10
Bài thơ: “Những con mồi” của Nguyễn Quang Thiều:
Đêm qua những con cá bơi quanh chiếc giường
Ngửi chúng ta rồi bỏ đi
Và bực dọc nói:
Chúng ta không bao giờ ăn những con mồi chết
Chúng ta có chết không?
Một người thức giấc hỏi.
Nhưng chẳng có câu trả lời nào.
Ngoài bóng một bác sỹ tâm thần ghi bệnh án
In trên bức tường phía đông
Trên đầu chúng ta những con cá
Bơi lùi về quá khứ
Chúng muốn xem lại hồ sơ những chiếc lưỡi câu
Nhưng chỉ còn lại một nhà kho mục nát
Trong đó một chiếc đồng hồ
Chạy từ lúc chúng ta chưa biết đến thời gian
Giữa bất tận những con mồi
Bầy cá nhắm mắt
Chỉ mở ra khi nghe lệnh
Nhưng một con không chịu nhắm mắt
Trong suốt cuộc săn tìm
Rời bỏ bầy quay lại
Và nói với một con mồi
Ngươi đã hết thời gian chết
Bài thơ “ Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ” của Nguyễn Quang Thiều :
Người hướng dẫn: Được dệt thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
Người mua: Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ nhân: Quà tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5, nói:
“Mẹ đau lắm”
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua: Ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân: Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn: (đã bỏ nghề)
Người mua: Hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân: Tôi nhìn thấy những người thân đã chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ 22.

 Một nhà “ Thiều học” là ông Nguyễn Chí Hoan, hiện phụ trách ban lý luận phê bình báo Văn Nghệ, đã viết một bài giải mã thơ Nguyễn Quang Thiều có tên : “Lịch sử tấm thảm Thổ nhĩ kỳ”- “ THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU” in trên báo Văn Nghệ tết Canh Dần, như một chìa khóa siêu đẳng giúp mọi người biết cách thưởng ngoạn thơ của vị chủ soái trường thơ”Tân…con cóc” này. Rằng Nguyễn Quang Thiều làm thơ bằng vô thức nên không dùng sự hiểu để tiếp cận được. Hãy nhắm tít tìn tịt mắt lại, ngôi co người vào mà tưởng tượng, may ra mới thưởng thức được siêu thơ “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ kỳ” trên.
Chúng tôi đã viết bài phê phán quan điểm tầm phào này của Nguyễn Chí Hoan, một nhà lý luận phê bình giỏi nhất của Hội nhà văn, còn giỏi hơn ông đại tá  Lê Thành Nghị hiện là chủ tịch hội đồng lí luận phê bình Hội nhà văn VN. Xin các bạn vào trang mạng này : “http://dohoang.vnweblogs.com/post/3360/365172”, http://dohoang.vnweblogspot.com
Hoặc đánh vào công cụ tìm kiếm http://google.com tiêu đề : “Tấm thảm Thổ nhĩ kỳ”-Thơ không thể hiểu” sẽ đọc được bài của chúng tôi phê bình quan điểm tào lao của Nguyễn Chí Hoan.
Nhân việc công bố trường thơ “tân con cóc” của Nguyễn Quang Thiều, chúng tôi cũng muốn ăn theo mà làm ngay lập tức một bài thơ theo trường thơ “ Tân… con cóc”, ngõ hầu tranh đua tài cán với chủ soái thi đàn Nguyễn Quang Thiều :
Bài thơ ứng tác : NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM NỖI BUỒN CỐ HƯƠNG MÀ NGỦ
Người đàn bà Làng Chiền mang một âm hộ cũ từ dưới sông lên
Những con cá khỏa thân quẫy trắng sông đành đạch vỗ tay đưa tiễn nàng tiên cá lên bờ u uẩn
Bà đi vào Làng Chiền thu không cả buổi chiều quên mặc yếm
Hai bầu vú của bà thõng xuống làm bọn mướp sắp hái trên giàn xấu hổ trốn sạch
Làng Chiền của tôi khóc bằng con mắt chó con ngồi tứa nước bọt xem bà mẹ rán mỡ
Bà nghe Làng Chiền thơm khen khét mùi lông cháy từ những căn bếp bồ hóng đang âm mưu đen

Rồi người đàn bà trút hết quần áo vào hoàng hôn
Bà trút cả guốc dép vào con đường giun dế đang mưng mủ vì cơn sốt tư tưởng
Người đàn bà ôm chiếc gối làm chồng, ôm cái chăn làm tình nhân bà rưng rức đau thương
Người đàn bà nghe chiếc bình vôi khóc miếng trầu vừa tự sát

Bà hổn hển mơ thấy mình hổn hển
Than ôi quê hương tôi- tôi ôm vào lòng cả nỗi buồn của con nhái bén
Những con dế tỉ tê với bà vì chuyện ông trời góa vợ
Và mặt trăng Làng Chiền là cái muôi lâu ngày không được múc canh
Cái thìa của quê hương tôi nằm ngửa lên mà khoe bụng rỗng

Người đàn bà ôm khói bếp Làng Chiền ngủ vùi cho sao đêm tiết canh
Nhưng khói bếp đã bay rồi chỉ còn con mèo mướp trong lòng bà gào đòi làm tình
Người đàn bà ôm cả nỗi buồn cố hương mà ngủ
Ngủ như khi nằm mơ bà vẫn thấy mình ngủ

Ngủ như giun dế trong đất thi thoảng thức bằng giấc mơ
Ôi cát đổ một ban mai Làng Chiền tương tư quá khứ
Bà ôm những hồn ma ngủ vùi cho đến khi ngày xưa xuất hiện
Ngày xưa đến đập cửa gọi người đàn bà có bầu vú dài như sông Đáy:
Dậy nào, bà ơi, cố hương không còn chỉ còn nỗi buồn tím chiều hoa xoan tang lễ
( hết mô phỏng trường thơ “ Tân …con cóc”)

Cứ đà ngoáy bút nhanh hơn sóc chạy này,  trong hai ngày hai đêm, có lẽ tín đồ mới (TMH) của trường thơ” Tân…con cóc” này sẽ đuổi kịp ba mươi năm làm thơ “ Tân …con cóc” của Nguyễn Quang Thiều chăng ?
Trong bài : Việt Nam là một cường quốc thơ in trên báo văn hóa thể thao ngày 01/02/2012, Nguyễn Quang Thiều tuyên bố với thế giới :
Tôi có thể nói không ngần ngại rằng VN là một cường quốc về thơ, ít nhất là trong khuôn khổ châu Á”.
Ôi cường quốc thơ “tân… con cóc” : cường quốc thơ dễ dãi miên man, cường quốc thơ ngô ngọng, cường quốc thơ giả cầy, cường quốc thơ tào lao xích bột…muôn năm…
Sài Gòn ngày 18-6-2012
Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi cho NTT blog

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét