Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

MỐT XIN LỖI

Cua Đá

Buổi tối, các đường phố ít đèn đường dễ thấy những gã đội mũ mềm chạy SH, Liberty chở các em 2D lượn phố. Vì mặc áo hai dây (2D) nên thấy rõ khoảng lưng trần của các em lấp lánh ánh lân tinh.  Là gái cưng của các gia đình có “điều kiện” hoặc có bồ làm chủ doanh nghiệp, chủ cầm đồ cho vay nặng lãi, việc tiêu tiền của các em là "nghĩa vụ và trách nhiệm" nên có mốt gì mới là các em "nhập" sớm nhất. Chẳng hạn như mốt xăm mình phát quang mới đây là một ví dụ. Xăm đen hoặc chàm quê cả cục rồi, nay xăm phát quang mới là biết chơi. Để có các hình xăm phát sáng trên lưng, gáy, bắp chân, các em tìm đến tiệm xăm công nghệ mới. Ở đó thợ sẽ pha chế mực Ultra Violet (hay còn gọi là loại mực ngoại tuyến) phục vụ thượng đế. Mực này sẽ bắt ánh sáng đèn led ở vũ trường, quán bar, các cửa hàng, show diễn thời trang. Phong trào xăm phát quang đang trở thành mốt của gái "đèn led".

Nói về thời trang khó bỏ qua chuyện mặc, mà là mặc cho thật "mốt". Mà đâu chỉ giới showbiz mới biết chơi cho mốt. Đến như cán bộ các cơ quan công quyền cũng mốt lắm. Trước đây ở một phường có tiếng đông đúc giang hồ dao búa có một gã “cửu” vạ vật các quán cháo lòng tiết canh, hàng nước bán rong, xó xỉnh nào cũng lê la. Sau mới hay đó chính là một trưởng công an mới được điều về phường này thay cho trưởng công an tiền nhiệm đã bị điều chuyển đi nơi khác vì lý do x y z gì đó. 
Trước khi tới nhiệm sở nhận công tác, đồng chí tân trưởng công an đã vào vai người kiếm việc làm thuê để nắm tình hình địa bàn.
Nhận chức trưởng công an nhưng đồng chí không bao giờ diện cảnh phục mà lúc nào cũng  đeo kính đen Rayban, mặc mấy bộ áo hoa chim cò và vài cái quần bò xé gấu  rất phủi.
Vài năm sau trưởng công an chim cò được cất nhắc vùn vụt. Chẳng biết có phải vì thế không mà về sau nhiều trưởng công an khác cũng đua nhau học tập và làm theo cái lối ăn mặc đó. Nó đã trở thành mốt thời thượng và rồi lây lan đến các chiến sỹ. Các chú ặc ê cũng cố sắm bằng được cho mình một bộ “xì tai” để khi hết giờ hành chính là dóng bộ ra đường.

Mới nhìn vào mấy cái hình thức bề nổi đó, dù người ta biết các đồng chí ăn mặc như vậy có thể có chút mục đích phục vụ cho công tác nhưng ăn mặc thường xuyên và trở thành mốt như vậy  thì thật là chướng mắt. Nhưng xét cho cùng nó cũng vô hại nếu so với mốt chạy cho có một học hàm học vị để phù hợp tiêu chuẩn “cơ cấu” cán bộ thì thật sự là phong trào tai hại. Các con số thống kê khoa học trên một số tạp chí uy tín quốc tế cho thấy các lãnh đạo trong trung ương đảng chính phủ ở nước ta có học vị Tiến sỹ, thạc sỹ là nhiều nhất thế giới vượt xa chính phủ Mỹ. Chi phí cho các cán bộ đi học theo các chương trình Tiến sỹ, thạc sỹ trong cả nước là rất lớn, tốn kém rất nhiều tiền dân. Người dân đã có câu nói nay trở nên quen tai: “Ở Việt nam trước đây ra ngõ gặp anh hùng còn ngày nay ra đường là va vào tiến sỹ”. Trong cái thời nhộm nhoạm của đêm trước ngày này người ta đua chen nhau leo lên địa vị cao để dành quyền vơ vét tài nguyên, trộm cắp ngân sách và móc túi dân với đủ mánh lới bỉ ổi nhờ vào quyền lực.

Ngày nay sau đại hội 6, đang có phong trào thi đua mới đang có tín hiệu như là mốt "thời trang" nặng về hình thức. Đó là cái mốt "xin lỗi”.
Ở các nước dân chủ, các quan chức mắc sai lầm trong điều hành nhà nước hoặc có vết nhơ trong đời tư thường công khai xin lỗi trước dân và tuyên bố từ chức như một biểu hiện của lòng tự trọng.
Truyền thông ở ta đã đề cập quá nhiều về "văn hóa xin lỗi" và cái vẻ nhún nhường bề ngoài của việc xin lỗi đã được các quan chức ở ta nhanh ý lẹ tay chộp lấy làm cái phao cứu sinh sau những sai phạm đáng lẽ ra là không thể dung thứ. Có lẽ vì thế nên gần đây người ta bắt đầu thấy  một phong trào quan chức thi đua xin lỗi. 

Đi tiên phong trong việc diện "tấm áo rất mốt" này có lẽ là đồng chí X. Tuy không xin lỗi dân mà chỉ xin lỗi đảng thôi thì chí ít cũng là sự nhìn nhận cái sai, cái dở của cá nhân trong công tác. 
Bắt được cái "xì tai" khá "mô đồ" này, bí thư thành ủy TP.HCM Lê Thanh Hải cũng đã sắm ngay được bộ cánh rất óng ả bằng cách hôm rồi công khai bày tỏ: “Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố xin nghiêm túc tự phê bình và nhận lỗi với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, với nhân dân, với Đảng bộ thành phố và sẽ cố gắng làm hết sức mình để khắc phục hạn chế, khuyết điểm”.

Lại một tin mới nữa là hôm kia, UBND TP.Đà Nẵng vừa có quyết định phê duyệt bộ chỉ số theo dõi xếp hạng cải cách hành chính năm 2012 và đây là lần đầu tiên, quy định xin lỗi dân được thành phố đưa vào là một trong các tiêu chí thi đua, xếp hạng quan trọng của nội dung cải cách hành chính, đánh giá cán bộ công chức.
Nhân dân đang theo dõi phong trào thi đua này bằng cặp mắt đầy hoài nghi về kết quả của nó.Thái độ hoài nghi này là không có gì lạ bởi ở nước ta, các phong trào thi đua khi phát động thì rầm rộ, trống rong cờ mở nhưng kết quả thực tế có đem lại điều gì hữu ích cho dân cho nước hay không thì ai cũng đã biết.
Trước đây đất nước chúng ta đã chứng kiến quá nhiều cuộc phát động thi đua như kiểu thi đua làm hợp tác hóa nông nghiệp, thi đua làm phân xanh, thi đua lập thành tích chào mừng dịp kỷ niệm ngày này ngày nọ như một cái mốt để rồi chỉ vì chạy theo thành tích nhằm ẵm giải thưởng và lấy đó làm cơ hội thăng chức mà các phong trào thi đua trở nên những câu chuyện hài trong dân như mấy câu Bút tre một thời:

Thi đua ta quyết tiến lên 
Tiến lên, ta quyết tiến lên hàng đầu 
Hàng đầu không biết đi đâu 
Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi...

Sau cái mốt xin lỗi của các quan rồi chẳng biết trong tương lai sẽ là mốt gì nữa?

Đăng bởi: Mai Xuân Dũng

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

TRUNG QUỐC VĨNH BIỆT MÁC-LÊ-MAO


                                 
Trần Mạnh Hảo
Lời đề từ trích của Tân Tử Lăng :
(“Văn trị” của Mao thật hồ đồ. Ông ta đã phá hoại một thế giới cũ, nhưng lại không xây dựng nổi một thế giới mới. Mao muốn đưa mọi người lên thiên đường, song lại đẩy họ xuống địa ngục…Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Mác và Ăng-ghen đề xướng trở thành một phong trào xã hội chủ nghĩa bạo lực trương ngọn cờ giải phóng giai cấp công nhân để phá huỷ lực lượng sản xuất tiên tiến. ..“chủ nghĩa xã hội khoa học” trở thành “chủ nghĩa xã hội bạo lực”, khiến mấy thế hệ những người cộng sản bao gồm Lenin, Stalin Mao Trạch Đông… lầm đường lạc lối…)…( trích trong cuốn “Mao Trạch Đông – ngàn năm công tội” của đại tá quân giải phóng nhân dân Trung Quốc Tân Tử Lăng được in công khai tại Trung Quốc, Thông Tấn xã Việt Nam dịch và xuất bản năm 2009)
Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 vừa qua là đại hội vĩnh biệt ba ông tổ của chủ nghĩa xã hội ( không tưởng) : Marx, Lenin, Mao Trạch Đông.Trong tất cả các văn kiện chính thức của đại hội này, không hề nhắc đến ba tên tuổi từng được cho là vĩ đại của Marx, Lenin, Mao, được tôn thờ ở Trung Quốc ( và thờ ở Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cămpuchia của Khờ me đỏ…). Các văn kiện của đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 đều khẳng định : Đảng đi theo lý luận Đặng Tiểu Bình, nguyên tắc  “ba đại diện” ( của Giang Trạch Dân…nhưng tên ông này không được nhắc đến- chú của TMH) và xã hội học tập ( thuyết của Hồ Cẩm Đào-nhưng tên ông này không được nhắc đến- chú TMH). Đến diễn văn bế mạc của tân chủ tịch đảng, chủ tịch nước kiêm người đứng đầu quân ủy trung ương Tập Cận Bình thì mệnh đề “xã hội học tập” của Hồ Cẩm Đào không được nhắc đến, chỉ nhắc đảng cộng sản Trung Quốc đi theo lý luận Đặng Tiểu Bình, nguyên tắc “ ba đại diện” mà thôi. Thậm chí, sau diễn văn bế mạc và nhậm chức, Tập Cận Bình khi giới thiệu sáu vị trong thường vụ bộ chính trị đứng sau mình đã tránh dùng từ “đồng chí” mà dùng từ “đồng nghiệp”…
Vậy lý luận Đặng Tiểu Bình là gì ? Thưa là thuyết “Mèo luận” : nôm na gói trong mấy từ mà họ Đặng đã phán sau khi Mao chết ( 1976) : “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”…Diễn nôm thuyết “Mèo luận” của Đặng là : tên gọi chế độ là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa không quan trọng, miễn là chủ nghĩa nào làm cho Trung Quốc thoát khỏi chết đói, thoát đại loạn, thoát khỏi các học thuyết phản động và tồi tệ rất xấu xa đốn mạt của Mao Trạch Đông. Sau khi cùng Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong và các lão tướng dẹp bỏ bè lũ bốn tên, Đặng Tiểu Bình lập thuyết “Mèo luận” : dương ngọn cờ Mao Trạch Đông để xóa bỏ tư tưởng Mao, dương ngọn cờ chủ nghĩa xã hội để dẹp bỏ chủ nghĩa xã hội, đưa nước Trung Hoa đỏ vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa từ năm 1978. Về thực chất, Đảng cộng sản Trung Quốc dưới lý thuyết thực dụng “Mèo luận” nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình, đã chôn vùi chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông ngay từ năm 1978, năm xóa bỏ kinh tế quốc doanh bao cấp để thực thi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn còn dùng chiêu bài Mác-Lê-Mao hay chiêu bài “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” để ngụy trang.
Cù Thu Bạch (1899-1935) một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, từng là Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc năm 1927, 1928, 1930,1931 (là một trong ba người được cho là thiểu năng trí tuệ đã ngu ngốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Trung Quốc : Trần Độc Tú “1879-1942”, Lý Đại Chiêu “1888-1927”) thuở sinh thời đã có bài thơ rất lạ, tuồng như là lời sấm về số phận của Đảng Cộng sản Trung Quốc như sau :
Đó là bài thơ “A di đà Phật”: một bài thơ đẫm chất Thiền của họ Cù:
A di đà phật (Người dịch: Lương Duy Thứ, Nam Trân)
“Đừng suy đoán
Đừng bận tâm
Tìm chi cái không biết
Bàn chi cái tối tăm
Vết thương trong ngày
Lấy mộng ban đêm hàn gắn
Ngày của ngày mai
Tự nhiên sẽ đến ...”

Con đường hũ nút đi tìm thế giới không có thật của giai cấp vô sản bằng vũ lực đấu tranh giai cấp, chuyên chế vô sản, xóa bỏ hoàn toàn quá khứ ( lịch sử) nhân loại, xóa bỏ tư hữu, tiêu diệt tư bản đầy máu và nước mắt của các đảng cộng sản theo Mác Lê nin (  và theo Mao) đúng như câu thơ  sấm truyền của Cù Thu Bạch tiên sinh : “Tìm chi cái không biết/ Bàn chi cái tối tăm/ Vết thương ban ngày/ Lấy mộng ban đêm hàn gắn”.

Mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là thiên đường không có thật trên trần gian : một xã hội phi biện chứng ( Hegel đã truyền cho Marx cái ý tưởng ngu ngốc nhất của mình : đến thiên đường cộng sản, phép biện chứng sẽ biến mất); cái ác, cái xấu, cái giả trá của con người hoàn toàn biến mất, con người hóa những ông thánh, bà thánh, không cần làm việc, chỉ cần ngồi hưởng thụ : “làm theo năng lực, hưởng theo như cầu”. Năng lực có hạn, còn nhu cầu của con người thì vô biên.

Đại đồng cộng sản là một xã hội không có nhà nước, không có quốc gia, không có gia đình, không có chính quyền, không có pháp luật, không có tòa án, không có quân đội, công an, đảng phái, không tôn giáo, không hôn nhân, không có đau khổ , không cô đơn, không có ngân hàng, không có cá nhân, không có cái tôi; ra đường không biết bà ấy, cô ấy là vợ tôi hay vợ anh vì quyền sở hữu  bị xóa bỏ; xe hơi, nhà cửa đẹp sang trọng là thế nhưng không còn khái niệm của anh hay của tôi mà là sở hữu toàn dân; tất cả tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất là sở hữu toàn dân; rồi thì vợ chồng toàn dân, con cái toàn dân, tình nhân toàn dân, cười vui toàn dân, làm tình toàn dân, cực khoái toàn dân, không còn cái gì gọi là riêng tư nữa; vì đây là xã hội của các vị thánh mà, hoàn toàn không có quan niệm sở hữu, không còn biện chứng tự nhiên và xã hội, chỉ có ngày mà không có đêm, chỉ có cười mà không có khóc, chỉ có vui mà không có buồn, chỉ có sống mà không có chết, chỉ có dương mà không có âm, chỉ có ăn mà không có ỉa ( xin lỗi vì lúc đó theo Marx, lịch sử loài người dừng lại trong cái tuyệt đối, mọi sự hôi thối quyết không được phép tồn tại, tất cả đều thơm điếc mũi kể cả đồng chí bọ xít, phép tương đối của Alb. Einstein đã cáo chung, phép biện chứng đã biến mất theo Hegel-Marx)…

Anh và chị cũng không còn được sở hữu chính mình : anh và chị, tức cái tôi của mỗi người, cái cá thể đã biến mất, nên anh và chị đều là sở hữu toàn dân. Có người cắc cớ chợt ngứa miệng hỏi anh : cái bàn tay của anh có phải của anh không ? – Không, của toàn dân !  Cái đầu của anh có phải của anh không ? – Không, của toàn dân ! Cái ý nghĩ ( tư duy) trong đầu anh có phải của anh không ? –Không, của toàn dân ! Cái con chim trong quần anh có phải của anh không?- Không, của toàn dân !

Đã bảo đến đại đồng cộng sản không còn khái niệm sở hữu, tư hữu nữa mà, hỏi hoài à ! Từ “của” không còn tồn tại, từ “sở hữu”, từ “cá nhân”, từ “cái tôi” hoàn toàn biến mất, biến mất cả “sở hữu động từ, sở hữu danh từ” trong các thứ tiếng châu Âu…Người ta cũng sẽ không còn đọc nổi cuốn “ Tư bản luận” của Marx nữa vì lúc đó các sở hữu động từ, sở hữu danh từ trong tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh …nơi cuốn sách này đều tự động biến mất…


Xã hội thiên đường cộng sản của Mác Lê Mao là một xã hội bánh vẽ, một xã hội phi nhân như thế, lếu láo như thế, bịa đặt tức cười đến con nít cũng không tin nổi như thế mà trời ơi, đã có hàng triệu, thậm chí hàng tỉ người tin theo, hay bị bắt buộc phải tin theo, vì các đồng chí vô sản sẽ nện búa lên đầu anh, lấy liềm quặp vào cổ anh và hét lên : mày không tin vào thuyết cộng sản của chúng tao, chúng tao sẽ giết mày.

Chao ôi, chỉ có những người mất trí mới tin vào mục tiêu hoang tưởng của chủ nghĩa cộng sản, một học thuyết “tối tăm” như bài thơ trên đã chỉ ra, một học thuyết hoàn toàn phi nhân đã giết chết hàng nhiều trăm triệu người trên thế giới như báo chí quốc tế mà tác giả cuốn “ Mao Trạch Đông ngàn năm cộng tội” là Tân Tử Lăng đã dẫn chứng trong sách của mình :

History’s Largest Killing Regimes

(Những chế độ giết người khủng khiếp nhất trong lịch sử):

Communist China 80,000,000
Soviet Union 60,000,000
Nazi Germany 20,000,000
Imperial Japan 5,000,000
Communist Vietnam 2,500,000
Communist North Korea 2,500,000
Communist Cambodia 2,000,000
Communist Yugoslavia 2,000,000

http://www.theepochtimes.com/n2/opinion/ccp-past-and-present-23293.html

Chúng tôi xin trích một số đoạn trong cuốn “ Mao Trạch Đông – nghìn năm công tội” của đại tá Tân Tử Lăng được in công khai tại Trung Quốc, bản Tiếng Việt do “ Thông tấn xã Việt Nam” dịch và xuất bản năm 2009, có bày bán công khai :
“Chính sách Đại nhảy vọt) trong kinh tế đã để lại những hậu quả tai hại. Mao Trạch Đông cũng là người phát động Đại Cách mạng văn hóa vô sản, thường gọi là Cách mạng văn hóa. Theo một số liệu thống kê[1], Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết cho 77.000.000 người, và người đứng thứ hai là Iosif Vissarionovich Stalin với 43.000.000 người.[2]
http://vi.wikipedia.org/wiki/Mao_Tr%E1%BA%A1ch_%C4%90%C3%B4ng

Cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội" do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành, ra mắt tại Hồng Công tháng 7-2007 và tới bạn đọc tháng 6-2008, là một trong những cuốn sách đang được dư luận Trung Quốc hết sức quan tâm, với những luồng ý kiến nhận xét trái ngược nhau, từ hoan nghênh đến bất đồng, thậm chí phản đối gay gắt.
Tác gia Tân Tử Lăng nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Học viện quân sự cấp cao, Đại học Quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Ông nhập ngũ năm 1950, từng tham gia các phong trào chính trị do Mao phát động, về hưu năm 1994 với quân hàm Đại tá.
Chúng tôi xin trích một số đoạn trong tác phẩm trên để bạn đọc thấy rõ “thiên đường xã hội chủ nghĩa thực ra là địa ngục trần gian” như sau :
“Kinh điển để Mao cải tạo xã hội chủ yếu là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Tư tường chủ nghĩa xã hội không tưởng của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” kết hợp với quan điểm “đại đồng” của Trung Quốc hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông. Sự phát triển của nó là Mác + Tần Thuỷ Hoàng (lời Mao Trạch Đông), thêm thắt nhiều thứ mang tính chất phong kiến, cuối cùng biến chất thành chủ nghĩa xã hội phong kiến.
“Chương 9
Địa ngục văn chương lớn nhất trong lịch sử loài người” :


“Đến khi Lý phản ánh ý kiến của La Long Cơ rằng ở Trung Quốc hiện nay “tiểu trí thức của chủ nghĩa Mác-Lenin lãnh đạo đại trí thức của giai cấp tiểu tư sản, người mù chỉ đường người sáng mắt”, thì Mao nổi giận dữ dội.”
“Theo thống kê chính thức, trong cuộc đấu tranh này, có 552.877 trí thức bị qui là phái hữu, bị đầy đoạ trong 20 năm trời. Đến khi sửa sai (1980), chỉ có 96 người thật sự là phái hữu, chiếm 1,8 phần vạn, nghĩa là trong 1 vạn người chưa đến 2 người.”
“Mao nói: “Phải chuyên chế. Không thể chỉ nói đến dân chủ. Phải kết hợp giữa Các Mác và Tần Thuỷ Hoàng”
“Chương 18
Địa ngục trần gian” :

“Trong 4 năm sau khi Mao tuyên bố thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng (tháng 9-1959) Trung Quốc đã xảy ra thảm kịch làm 37,55 triệu người chết đói (số liệu chính thức được giải mật theo quyết định của Bộ chính trị ĐCSTQ tháng 9-2005), nhiều hơn cả số người chết trong Chiến tranh thế giới II. Đây là cuộc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng thời gian dài nhất, quy mô lớn nhât, thiệt hại thảm khốc nhất trong lịch sử loài người. Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.”
“Khi chân lý trong tay, Mao có thể bao dung các đối thủ, đoàn kết phe phản đối. Thường khi Mao đuối lý, phát hiện mình sai rồi, thì ông ta không thể bao dung phái phản đối, mà quyết tâm đẩy họ vào chỗ chết, để trừ hậu hoạ. Đó là lý do vì sao Mao tàn bạo đến tận cùng đối với những người bạn cũ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Hạ Long, Bành Chân, Đào Chú…”
“Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp, mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị hôm nay.”
“Khởi đầu bằng việc đập phá tượng Thích ca mâu ni trên Phật Hương Các ở Di Hoà Viên, Hồng vệ binh đã phá hoại 4.922 trong số 6.843 di tích cổ ở Bắc Kinh. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước có 10 triệu nhà bị lục soát, trong đó Bắc Kinh 11,4 vạn, Thượng Hải 10 vạn. Nhà riêng nguyên Bộ trưởng Giao thông Chương Bá Quân bị Hồng vệ binh chiếm làm trụ sở, hàng vạn cuốn sách ông lưu trữ bị chúng đốt suốt ngày đêm để sưởi ấm. Hơn 200 sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh kéo về Sơn Đông “san bằng” mộ Khổng Tử. Lăng mộ của nhiều nhân vật lịch sử hoặc danh nhân như lăng Viêm đế, mộ Hạng Vũ, Gia Cát Lượng. Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương, Ngô Thừa Ân, Từ Bi Hồng… bị đập phá.”
“Mao còn tạo ra cuộc khủng bố đỏ, cho Hồng vệ binh nông dân thả sức giết hại “kẻ xấu” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu, nhà tư bản, xã hội đen) để áp chế sự phản kháng của nhân dân. Chỉ riêng hạ tuần tháng 8-1966, nội thành Bắc Kinh đã có hàng ngàn người bị đập chết tươi.”
“Nhiều người khi ấy đã được chứng kiến những cuộc tắm máu, những kiểu giết người cực kỳ man rợ như thời trung cổ. Ôn lại chuyện trên, cựu Hồng vệ binh Trần Hướng Dương sau này viết:
“Vì sao những đứa trẻ mười mấy tuổi đầu lại dã man giết người không chớp mắt như vậy? Vì từ nhỏ đã được giáo dục hận thù. Thù địa chủ, thù nhà tư bản, thù Quốc Dân Đảng: Trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn là thiên kinh địa nghĩa, vấn đề duy nhất là không biết chĩa vào đâu. Kè thù bên cạnh đã bị các bậc tiền bối quét sạch rồi, còn lại Tưởng Giới Thạch và đế quốc lại ở quá xa, không với tới được. Đại cách mạng văn hoá vừa nổ ra, mới đột nhiên biết quanh mình còn ẩn náu nhiều kẻ thù, chúng tôi vui mừng đến phát cuồng, bao nhiêu sức lực dồn nén dều bung ra. Sự cuồng loạn ấy chẳng những hiện nay không mấy ai tin, mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng vệ binh thật đáng nguyền rủa, nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách lớn tiếng hỏi lại: ai đã giáo dục chúng tôi thành những thằng điên?”
“Băc Kinh "nêu gương", những vụ tàn sát lan ra cả nước. Huyện Đạo ở Hồ Nam là một trong những điển hình. Khắp nơi là những bố cáo giết người của “toà án tối cao bần nông và trung nông lớp dưới", những khẩu hiệu kêu gọi giết sạch 4 loại người, (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu, trí thức, nhà văn, nghệ sĩ…).”
“Trong hai tháng 7 và 8 năm 1967, Quan Hữu Chí, Trưởng ban vũ trang khu Thanh Đường đã chỉ huy dân quân dùng cuốc xẻng, súng bắn chim, gậy gộc giết hại 207 người, kể cả trẻ em. Do công lao trên, y được bầu là “phần tử tích cực học tập và vận dụng tư tường Mao" cấp tỉnh năm 1967. Viên Phủ Lễ, Khu trưởng Lâm Phô tổ chức 120 dân quân nòng cốt trong ba ngày giết 569 người.”
“Trần Đăng Nghĩa, Chủ tịch Hội Bần nông Đại đội sản xuất Hạ Tưởng là thủ phạm chính trong một vụ giết người, cưỡng dâm tập thể. Thấy vợ mới cưới của con em địa chủ Trần Cao Tiêu xinh đẹp, y sinh lòng ghen ghét và sớm có ý đồ bất lương, thì nay thời cơ đến. Tối 26-8-1967. Nghĩa cho gọi Tiêu đến trụ sở đại đội và trói nghiến lại. Y cầm giáo đâm một nhát vào dùi anh Tiêu, rồi khoát tay ra hiệu. 7,8 dân quân xông vào dùng gậy đập anh Tiêu chết tươi. Để chứng tỏ mình “kiên quyết cách mạng”, y dùng mã tấu cắt đầu anh Tiêu, cùng hai con em địa chủ, phú nông khác cũng vừa bị đánh chết. Chị Tiêu (xuất thân bần nông) sợ quá trốn về nhà mẹ đẻ ở làng khác, Nghĩa cho dân quân bắt chị trở lại, y tuyên bố các nơi khác vợ địa chủ đều phải “phục vụ tập thể bần nông”.
“Sau khi cơm no, rượu say, Chủ tịch Hội Bần nông và dân quân, tất cả 12 tên, luân phiên cưỡng hiếp chị Tiêu khi ấy đang mang thai 3 tháng. Xong xuôi. Nghĩa không quên thực hiện “chính sách của ĐCSTQ”: cho dân quân khiêng nạn nhân đã ngất xỉu đến nhà bần nông Trần Nguyệt Cao, buộc chị làm vợ người nông dân già độc thân này.”
“Tối 17-10-1969, Lưu Thiếu Kỳ hơi thở thoi thóp, mũi cắm ống xông, họng gần ống hút đờm, phủ một tấm chăn, được cáng lên máy bay quân sự, bí mật đưa đến Khai Phong. Nơi cuối cùng giam giữ Lưu Thiếu Kỳ này nguyên là kho bạc của một ngân hàng từ trước năm 1949, các cánh cửa là những tấm thép dày, chấn song cửa sổ to đùng. Hai trung đội được cử canh giữ ngày đêm, với 4 khẩu súng máy đặt trên các nóc nhà xung quanh đề phòng bất trắc.”
“6 giờ 40 phút sáng 12-11-1969, ngày thứ 27 sau khi bị đưa đến lưu đày ở Khai Phong, Lưu Thiếu Kỳ qua đời trong tinh trạng không được cấp cứu. Khi Lý Thái Hoà, vệ sĩ của ông năm xưa đến nhận xác, thi hài vị Chủ tịch nước đặt trên nền đất dưới gian hầm, chân tay khẳng khiu, đầu tóc rối bời, miệng mũi méo xệch, máu ứ bên khoé mép. Người vệ sĩ dùng kéo xén bớt mái tóc bạc dài gần hai gang tay, sửa sang chòm râu, mặc quần áo, xỏ giày cho ông. Nhân viên chuyên án chụp ảnh để mang về trình Mao, Giang. Sau đó, họ đặt thi hài Lưu Thiếu Kỳ trên xe quân sự nhỏ, chân thò ra ngoài, bí mật đưa đi hoả táng, dưới cái tên “Lưu Vệ Hoàng, không nghề nghiệp”.”
“Gần 3 năm sau, ngày 16-8-1972, mấy người con của Lưu Thiếu Kỳ xin thăm cha mẹ, Mao Trạch Đông phê vào báo cáo của Tổ chuyên án: “Bố đã chết, có thể thăm mẹ”.”
“Lịch sử phải ghi bằng dòng chữ to đậm: Mao Trạch Đông chà đạp Hiến pháp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, giam cầm trái phép Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ ( và hàng trăm hàng ngàn cán bộ cao cấp khác, hàng vạn, hàng chục vạn đảng viên quần chúng vô tội) và bức hại Người và các đồng chí khác của Người một cách man rợ cho đến chết.”
“sai lầm của Mao làm chết đói 37,55 triệu người. Một lãnh tụ đảng luôn miệng nói giải phóng nhân dân, phục vụ nhân dân, mang lại hạnh phúc cho nhân dân phạm tội ác lớn như vậy, mà lại cự tuyệt nhận sai lầm, không từ chức, lại phát động Đại cách mạng văn hoá, cách chức, đánh đổ, thậm chí dồn vào chỗ chết khoảng trên 80% đảng viên cộng sản chính trực”
“37,55 triệu người chết đói là sự thật lịch sử không gì bác nổi chứng minh rằng lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mao là chủ nghĩa xã hội giả hiệu phản động nhất, tàn khốc nhất trong lịch sử loài người. Mỗi khi nghĩ đến điều này, Mao rùng mình ớn lạnh.”
“những lý luận của Mao như phòng, chống xét lại, ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi, tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản… đều trở thành dối trá, bịp bợm.”
“Mao Trạch Đông những năm cuối đời tâm địa tối tăm, giả dối, xảo trá, vừa không từ bất cứ việc làm xấu xa nào, lại muốn để lại tiếng thơm muôn thuở”
“Ngồi trên đỉnh kim tự tháp tác oai tác quái, bức hại cán bộ lãnh đạo các cấp, lừa bịp toàn đảng, toàn quân, toàn dân, không chỉ là tứ nhân bang” (lũ bốn tên), mà là “ngũ nhân bang”, do Mao Trạch Đông làm bang chủ.”
“Ba năm Đại tiến vọt, cả nước có 37,55 triệu người chết đói tồn thất khoảng 120 tỉ NDT. Mười năm Đại
cách mạng văn hoá, theo Diệp Kiếm Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác Trung ương ngày 13-12-1978, có 20 triệu người chết, 100 triệu người bị đấu tố, lãng phí 800 tỉ NDT.”



“Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên an môn, tiếp tục để thi hài Mao ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông”
http://www.vietstudies.info/kinhte/MaoTrachDong_NganNamCongToi.htm

Nhà báo kiêm nhà sử học Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã bỏ ra 15 năm trời thu thập chứng cứ để viết ra tác phẩm « Bia mộ », tài liệu đầy đủ nhất từ trước đến nay về nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Sách đã được tái bản đến lần thứ tư tại Hồng Kông.

 « Cuốn sách này là bia mộ cho cha tôi, bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn nhân của trận đói, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này ». Tác giả đã viết như trên trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa được nhà xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/09/2012.

Sinh năm 1940, Dương Kế Thằng từng là phóng viên kỳ cựu của Tân Hoa Xã, và hiện nay là Phó tổng biên tập tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu (Yanhuang Chunqiu). Mười lăm năm điều tra trên thực địa, với hàng ngàn trang tài liệu tìm được ở địa phương và rất nhiều nhân chứng, tác giả đã thuật lại sự điên cuồng của việc cưỡng bức tập thể hóa, lên án Mao Trạch Đông là bạo chúa tàn ác nhất, vô nhân đạo nhất trong lịch sử Trung Quôc và lích sử thế giới, vượt xa các bạo chúa khác như Tần Thủy Hoàng, Thành Cát tư hãn, Stalin, Hit le…

http://thuymyrfi.blogspot.com/2012/09/bia-mo-mao-trach-ong-va-nan-oi-khung.html

Viết đến đây, chúng tôi ngậm ngùi thương đất nước mình, dân tộc mình hình như trong quá khứ đầu thế kỷ hai mươi đến nay không còn người thông tuệ, sáng suốt đưa dân tộc, đất nước thoát khỏi những tà thuyết đã gây nên hàng triệu cái chết cho đồng bào, gây đau khổ tang tóc vô cùng tận cho quê hương ta. Xin quý vị độc giả cùng chúng tôi đọc lại nguyên lý dưới đây trong cương lĩnh của đảng Lao động Việt Nam trong đại hội đảng năm 1951 tại Việt Bắc để biết đất nước ta vì sao nên nỗi :
“Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Ǎngghen - Lênin - Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”
http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_C%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam
Người viết bài này xin trích lời của Tân Tử Lăng- tác giả sách vừa dẫn để kết thúc bài viết :
“Phải tiến hành một cuộc chuyển đổi ý thức hệ sâu sắc, tuyên bố công khai và rõ ràng trước toàn đảng, toàn dân: từ bỏ những giáo điều “tả” khuynh từ Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông - những lý luận đã mấy chục năm đưa Trung Quốc vào con đường sai lầm, đem lại cho Trung Quốc nghèo nàn, rối loạn và chuyên chế, đến nay vẫn cản trở và phủ định công cuộc cải cách-mở cửa…Đổi tên ĐCSTQ thành Đảng Dân chủ Xã hội, tham gia Quốc tế xã hội, để kế tục cội nguồn lịch sử của Đảng Dân chủ Xã hội…” ( tức Quốc tế 2, tiền thân của các đảng xã hội, công đảng châu Âu bây giờ và một phần đảng dân chủ Mỹ- Chú của TMH).
Đảng cộng sản Trung Quốc trong đại hội lần thứ 18 vừa qua, đã thực hiện mơ ước của Tân Tử Lăng là vĩnh biệt ba ông tổ : Marx-Lê-Mao. Có lẽ đến đại hội thứ 19, đảng cộng sản Trung Quốc mới đổi tên là Đảng Dân chủ xã hội như mơ ước của Tân Tử Lăng chăng ?
Hi vọng truyền thống bắt chước đảng cộng sản Trung Quốc của đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn được tiếp tục, để bỏ tên hai ông kễnh Marx-Lenin ra khỏi cương lĩnh chính trị của mình mà tự do hóa, dân chủ hóa đất nước Việt Nam đang từng ngày bị bá quyền Trung Quốc xâm lược từ tư tưởng chính trị đến đất đai biển trời Tổ Quốc; mong lắm thay !
Sài Gòn 24-11-2012

Trần Mạnh Hảo

CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT


                     
Nguyễn Văn Khải-Ông già Ôzôn.

   Tối 22-11-2012,khán giả màn hình nhỏ của VTV1 xem thấy người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định :” Tấm hộ chiếu mới của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển liên quan ở Biển Đông”.
   Ba câu hỏi đã được đặt ra: Những cuốn hộ chiếu của Trung Quốc có in hình lưỡi bò bắt đầu được lưu hành từ bao giờ? Đã có bao nhiêu người Trung Quốc dùng hộ chiếu này để vào Việt Nam? Tại sao người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam không khăng định : “Những người Trung Quốc nào dùng hộ chiếu có in hình lưỡi bò sẽ không được nhập cảnh vào Việt Nam”.
  Hôm sau “gần 200 khách du lịch Trung Quốc làm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam ngày 23/11 tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai, cơ quan chức năng Việt Nam đã đóng dấu hủy bốn hộ chiếu có in chìm hình đường lưỡi bò, đồng thời bộ đội biên phòng làm nhiệm vụ tại cửa khẩu này đã đóng dấu thị thực vào giấy thông hành rời cho người nhập cảnh “ và “Biên phòng Móng Cái đã áp dụng biện pháp chỉ cấp thị thực rời cho người Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam sử dụng cuốn hộ chiếu phổ thông điện tử có in bản đồ đường lưỡi bò ở một số trang. Khi cấp thị thực rời, các cơ quan chức năng sẽ không phải đóng dấu chứng thực vào hộ chiếu và qua đó khẳng định không công nhận bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc dưới bất cứ hình thức nào,đại diện đồn biên phòng số 7 khẳng định” (Báo Tuổi Trẻ ngày 24-11-2012).
    Chẳng nhẽ các cửa khẩu vào Việt Nam chỉ có hai cửa khẩu ở Lào Cai và Móng Cái?
   Tôi đã từng đi qua cửa khẩu Lạng Sơn,có lúc thấy vài chục tới hơn trăm người cùng làm thủ tục xuất hoặc nhập cảnh ở cửa khẩu này.Tương tự ở các sân bay như Nội Bài,Tân Sơn Nhất,Đà Nẵng,…tôi cũng thường thấy nhiều người nước ngoài trong đó có người Trung Quốc làm thủ tục xuất nhập cảnh ở những nơi đó.
  Vậy sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tuyên bố phản đối việc Trung Quốc phát hành hộ chiếu có in hình lưỡi bò,mới chỉ có bộ đội biên phòng ở Lào Cai và Móng Cái thực thi quyền bảo vệ an ninh quốc phòng của đất nước mình? Còn ở các cửa khẩu khác thì những người Trung Quốc mang hộ chiếu có hình lưỡi bò vẫn được nhập cảnh vào Việt Nam ư? Hơn nữa trước buổi tối 22-11-2012 ở hai cửa khẩu này những người Trung Quốc mang hộ chiếu có in hình lưỡi bò vẫn được nhập cảnh vào Việt Nam sao? Đặc biệt ai đã quyết định cấp visa cho người Trung Quốc không có hộ chiếu  ngoại giao dùng hộ chiếu có in hình lưỡi bò vào Việt Nam.
  Tất cả những câu hỏi trên đều có thể được trả lời rằng: 
  Đã có người Trung Quốc mang hộ chiếu in hình lưỡi bò nhập cảnh vào Việt Nam từ lâu rồi.Mà visa vào Việt Nam do các văn phòng lãnh sự thuộc Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc  cấp- đây là sự sai lầm không được phép có và không một người Việt Nam yêu nước nào có thể tha thứ cho kẻ đã cấp visa.
Phản ứng với sự khiêu khích trắng trợn này của Trung Quốc quá chậm trễ và không thống nhất trong hành động của các cơ quan,đơn vị lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ an ninh-quốc phòng quốc gia chứng tỏ rằng  các cấp lãnh đạo mà đứng đầu là Hội đồng an ninh quốc gia đã quá tùy tiện trong các quyết sách và thể hiện sự lãnh đạo lỏng lẻo của các cơ quan,đơn vị trực thuộc.

Đăng bởi Mai Xuân Dũng

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Hãy chuẩn bị cho ngày Trung Quốc sụp đổ



Lê Trí

Những ngày qua, cái tên Trung Quốc đã gần như thu hút mọi sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Người ta nói về sức mạnh của Trung Quốc, dự đoán khi nào Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới… Nhưng người ta đã không để ý rằng, những dấu hiệu “diệt vong” đang xuất hiện lại khá nhiều ở Trung Quốc.

Không thể phủ nhận sự trỗi dậy quá mạnh mẽ của Trung Quốc trong những năm qua đã khiến không ít quốc gia phải lo ngại và thậm chí là gióng lên những hồi chuông báo động ở những cường quốc mạnh nhất thế giới. Tại Diễn đàn An ninh quốc tế vừa diễn ra hồi tuần trước tại Halifax (Canada), cái tên Trung Quốc đã trở thành tâm điểm của mọi cuộc thảo luận. Ở đó, các đại biểu đặt câu hỏi liệu ông Obama có bị hút theo vị tân lãnh đạo Tập Cận Bình của Trung Quốc hay không? Liệu nước Mỹ sẽ làm gì với những cuộc tranh chấp biển đảo giữa Trung Quốc với Nhật Bản hay ASEAN? Liệu Tokyo và New Delhi có bỏ Washington để chạy về phía Bắc Kinh hay không?… Từng đó câu hỏi đã cho thấy sức ảnh hưởng của Trung Quốc giờ đây đã lớn đến thế nào.


Nhưng cũng có nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, thực tế những dấu hiệu diệt vong giống như những gì đã có ở Liên bang Xô viết trước kia giờ đây đang xuất hiện trở lại khá nhiều ở Trung Quốc và rất có thể Trung Quốc sẽ sụp đổ trước khi kịp vượt qua Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Các chuyên gia này cũng chỉ ra rằng, cách đây 2 thập kỷ, cả chính phủ Mỹ và CIA đã khá bối rối khi bất ngờ nhận ra rằng đối trọng của mình đã sụp đổ quá nhanh chóng đến như vậy và giờ đây, đã đến lúc nước Mỹ cần phải lắng nghe lời kêu gọi: “Hãy chuẩn bị cho ngày Trung Quốc sụp đổ”.

Nhưng những dấu hiệu đó là gì? Các chuyên gia đã chỉ ra ít nhất 5 yếu tố cho thấy lịch sử đang chuẩn bị lặp lại.



Nếu có một vụ Bạc Hy Lai thứ 2 vỡ lở dưới thời ông Tập Cận Bình, hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc sẽ bị chia rẽ sâu sắc hơn nữa và sự bất mãn dẫn đến bất ổn nghiêm trọng trong xã hội cũng bùng nổ.

1. Hàng ngũ lãnh đạo bị chia rẽ và bê bối

Trong năm 2012, vụ bê bối của chính trị gia thuộc nhóm “ngôi sao đang lên” Bạc Hy Lai đã trở thành vết nhơ lớn nhất trong vòng 40 năm qua của chính trường Trung Quốc. Nhưng theo bình luận của tờ The Diplomat (Nhà Ngoại giao) vụ bê bối này cũng cho thấy những cuộc đấu tranh giành quyền lực tại Trung Nam Hải đang diễn ra gay gắt và vấn nạn tham nhũng đã “leo cao, chui sâu” đến mức nào trong bộ máy lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc.

Đại hội 18 của Đảng cộng sản vừa kết thúc nên những cú sóng dồn mới chỉ đang ở mức độ bắt đầu đối với ông Tập Cận Bình và 7 Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị. Không ai dám chắc, một vụ scandal tương tự vụ Bạc Hy Lai sẽ không xảy ra trong nhiệm kỳ của ông Tập và nếu có, nó sẽ khiến cho sự chia rẽ và rạn nứt trong nội bộ ban lãnh đạo Trung Quốc trở nên sâu sắc hơn nữa đồng thời sẽ gây ra những sự bất mãn dẫn đến bất ổn nghiêm trọng trong xã hội Trung Quốc.

Trong thời gian vừa qua, các nhà phân tích còn nhắc đến vấn đề “phe quân đội” cũng đang trỗi dậy ngày một mạnh mẽ và “nếu ông Tập không vững tay lái, rất có thể con dao sắc này sẽ khiến ông đứt tay”, The Diplomat nói.

2. Tăng trưởng kinh tế chậm lại

Trong suốt 2 thập kỷ qua, Trung Quốc đã trở thành hình mẫu về phát triển kinh tế cho cả thế giới. Sau gần 30 năm liên tục tăng trưởng với tốc độ trên 10%, bước sang năm 2012, kinh tế Trung Quốc đã giảm tốc khá nhanh. Quý trước, tăng trưởng kinh tế của nước này chỉ đạt 7,4% do kinh tế Mỹ và châu Âu khủng hoảng. Sự “thất tốc” đột ngột này đã trở thành một đòn giáng mạnh vào toàn bộ lực lượng lao động Trung Quốc và đã bắt đầu phát sinh những bất ổn, đặc biệt là sự giận dữ của hàng triệu người dân ở nông thôn hay công nhân trong các nhà máy khi phải nhìn thấy thu nhập của mình giảm nhanh chóng.



Chỉ tính riêng trong năm 2010, nền kinh tế yếu đã khiến Trung Quốc phải gánh chịu khoảng 180.000 cuộc đình công, biểu tình hay thậm chí là bạo loạn và điều này đã trở thành gánh nặng khó chịu cho toàn xã hội cũng như hệ thống chính trị Trung Quốc.

Kinh tế khó khăn khiến làn sóng di cư trong nước và sang cả các nước châu Á khác tăng mạnh. Những cuộc đụng độ nảy lửa giữa người bản xứ và dân di cư cũng bùng nổ thường xuyên hơn, đặc biệt là tại các thành phố lớn.

Chưa hết, Trung Quốc còn đang phải đối mặt với vấn đề nợ của các chính quyền địa phương cũng như bong bóng bất động sản đang ngày một phình to ở những đô thị lớn. Chỉ cần 1 trong 2 quả bong bóng này phát nổ, những hệ lụy kinh tế đối với cả nước trở nên vô cùng khó lường.

Cuối cùng, tác động của chính sách một con kéo dài đã đẩy Trung Quốc vào một vấn đề rất khó giải quyết: lực lượng lao động ngày một mỏng đi khiến các kế hoạch phát triển kinh tế trong tương lai trở nên ít khả thi hơn rất nhiều.

3. Những vụ tranh chấp chủ quyền không lối thoát

Trong gần một thập kỷ, chính sách “ngoại giao nụ cười” đã giúp Trung Quốc có được khá nhiều bạn bè cũng như thiện cảm của thế giới. Đã có lúc người ta coi Bắc Kinh là đối tác dễ chịu và sáng tạo hơn tất cả các quốc gia khác, kể cả Mỹ và Nhật Bản. Cùng với đó, các dự án viện trợ hào phóng cũng giúp cho Trung Quốc gây dựng được sự hiện diện ở khắp thế giới. Nhưng tất cả những thành tựu này đang có nguy cơ tan thành mây khói bởi tuyên bố đòi chủ quyền tại các vùng biển Hoa Đông với Nhật Bản và Biển Đông với các nước ASEAN. Để lấy chỗ dựa, Trung Quốc buộc phải kích động chủ nghĩa dân tộc trong nội bộ nước mình nhưng có điều đó là con dao 2 lưỡi vì chính quyền sẽ không thể kiểm soát được ngọn lửa này. Kết quả là các nước nhỏ hơn sẽ liên kết với nhau để đối phó với Trung Quốc. Châu Á – Thái Bình Dương trở nên bất ổn sẽ tác động ngược trở lại nền kinh tế Trung Quốc, gây ra những khó khăn mới đồng thời trong con mắt cộng đồng quốc tế, Trung Quốc trở thành kẻ hiếu chiến, xấu xa và sẽ bị cô lập dần dần.

4. Những thảm họa môi trường đang chực chờ

Đã đến lúc Trung Quốc phải trả giá đắt cho việc chỉ chú tâm phát triển kinh tế mà bỏ qua yếu tố môi trường. Trong những năm gần đây, các nguồn nước có thể uống được đã giảm đi nhanh chóng, hạn hán tại các vùng Tây Bắc trở thành vấn nạn thường xuyên hơn do lượng mưa ngày một giảm trong khi nhiệt độ lại cứ tăng đều đều. Tại các thành phố lớn của Trung Quốc, tình trạng ô nhiễm không khí đã ở mức báo động cực kỳ nguy hiểm đồng thời tình trạng mất an toàn thực phẩm cũng tiếp diễn với chiều hướng ngày một xấu hơn.



Để giải quyết vấn nạn môi trường, các nhà lãnh đạo Trung Quốc chỉ còn một cách duy nhất: Hy sinh tăng trưởng kinh tế để đầu tư vào cải tạo môi trường. Nhưng cũng chính từ đây, các bất ổn xã hội sẽ được dịp bùng phát mạnh hơn nữa.

5. Không có ý tưởng mới

Có lẽ một trong những mối lo ngại lớn nhất của ông Tập Cận Bình và 6 thành viên khác trong Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc là họ không có một ý tưởng thực sự “hay ho” nào để thúc đẩy cải cách. Thực tế, những cá nhân có ý tưởng và tài năng để cải cách ở Trung Quốc không thiếu nhưng có điều ban lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc sẽ không thể mạo hiểm hy sinh những chức vụ quan trọng hàng đầu để trao nó vào tay những cá nhân này.  Trong lúc này, ông Tập lại phải đối mặt với sức ép từ giới thượng lưu, nhà giàu đòi hỏi chính phủ phải có những biện pháp để bảo đảm quyền lợi cho họ còn những tầng lớp còn lại thì giận dữ với nạn tham nhũng và tình trạng mức sống suy giảm nghiêm trọng. Đến một lúc nào đó, những sức ép này lớn dần và buộc ban lãnh đạo cấp cao quốc gia phải vội vã tiến hành cải tổ. Kịch bản này có vẻ như khá giống với những gì ông Mikhail Gorbachev đã làm ở Liên Xô 25 năm trước.

Dưới thời của mình, ông Hồ Cẩm Đào đã cố tình giảm nhẹ vai trò của kinh tế tư nhân và chú trọng vào các doanh nghiệp nhà nước nhưng đến nay, các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng đã hết thời. Dưới thời của mình, liệu ông Tập sẽ làm gì để tiếp tục duy trì tăng trưởng kinh tế đồng thời xoa dịu sự bất mãn của người dân trong bối cảnh các chính quyền địa phương lãnh đạo ngày càng yếu kém?

Câu hỏi đặt ra là: Đâu là tầm nhìn cho Trung Quốc trong vòng 10 hay 25 năm tới?

Các chuyên gia tại Halifax kết luận: Dù đây mới chỉ là những dấu hiệu nhưng diễn biến của nó trong khoảng 10 năm tới vẫn còn khá phức tạp và điều quan trọng là hiện nay, khi các nền kinh tế đã giao thoa với nhau khá sâu sắc, chắc chắn Mỹ và phương Tây cũng sẽ không thể yên ổn nếu Trung Quốc sụp đổ và nhiệm vụ của họ là phải theo dõi rất kỹ những tín hiệu này đồng thời có bước chuẩn bị “thoát thân” cho chính mình.

Nguồn: infonet.vn (Bộ Thông tin & Truyền thông)

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Nhà nước Việt Nam liên tục vi phạm hiến pháp


Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi đăng trực tiếp trên blog này.

Tuy không phải là luật sư, nhưng chúng tôi đã có nhiều năm nghiên cứu về đề tài luật pháp, nay thấy khẩu hiệu của Nhà nước Việt Nam treo ở khắp các cơ quan lớn bé: “ Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” nên viết bài này chỉ ra việc Nhà nước Việt Nam hầu như không hề thực hiện khẩu hiệu trên do mình đề ra, liên tục ban hành rất nhiều điều luật và văn bản dưới luật vi hiến; hi vọng được quý vị thức giả trong và ngoài nước, nhất là giới luật sư chỉ giáo.

Có thể nói, chúng tôi đã đọc bản “Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992” đến gần như thuộc lòng. (NXB Chính trị Quốc gia 2005 - Bản sửa đổi, bổ sung năm 2001). Chúng tôi thấy trong bản Hiến pháp này còn rất nhiều điều nghịch lý, bất hợp lý, trái với nhiều công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Trong lúc Nhà Nước Việt Nam đang nóng lòng chờ được kếp nạp vào tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thiết nghĩ, Hiến pháp và luật pháp Việt Nam cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế; ngõ hầu đưa công cuộc cải cách kinh tế theo tiêu chuẩn WTO, kèm theo với công cuộc cải cách nền chính trị Việt Nam đang bị coi là nền chính trị lạc hậu nhất thế giới, cho đúng với lời ông tổ của chủ nghĩa cộng sản Karl Marx từng dạy: “Kinh tế nào, chính trị ấy!”. Một nền kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế đa thành phần (đa nguyên) như đang tiến tới của Việt Nam, nhất thiết phải có nền chính trị đa nguyên phù hợp đi kèm mới có cơ phát triền; để hi vọng Việt Nam không bị tụt hậu khủng khiếp, không còn phải đợi đến 197 năm nữa mới tiến kịp Singapore hôm nay.

Trước hết, chúng tôi xin phép bàn về chữ “Quyền” tức quyền của người dân: “Nhân Quyền” – (từ “Nhân Quyền” này Đảng và Nhà nước VN rất hãi!). Trong bản Hiến pháp này, chúng tôi đếm chưa hết, nhưng đã thấy có mấy chục từ “Quyền”: “Công dân có quyền” hầu như nhan nhản khắp các trang trong bản Hiến pháp, thôi thì đủ các thứ quyền, y như công dân của các nước tự do trên thế giới vậy; xin tạm kể ra các quyền: quyền sống tự do, hạnh phúc, quyền chính trị, quyền làm chính trị, quyền tư do báo chí, tư do ngôn luận, tự do biểu tình, quyền lập hội, quyền tự do cư trú, quyền tự do ra nứơc ngoài, quyền tự do tôn giáo, quyền ứng cử, bầu cử, quyền góp ý trao đổi (phê bình) nhà nước…

Nhưng trên thực tế, người dân Việt Nam hầu như không được hưởng những “quyền” đã ghi trên Hiến pháp. Đã gọi là “Quyền” thì không phải đi xin; thế mà lạ thay, bất cứ nhu cầu nhỏ bé nào của nhân dân thuộc lĩnh vực quyền con người (nhân quyền), người dân Việt Nam (ông chủ) cũng phải cúi đầu làm đơn xin bọn “đầy tớ”, mà bọn “đầy tớ= Đảng CS=Nhà nước VN” vẫn không cho! (“Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”- Lời ông Hồ Chí Minh!).

Nhân đây, xin trích một nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Thực tế là tiêu chuẩn của chân lý!”. Hãy nhìn vào thực tế đời sống của người dân Việt Nam, mới thấy Đảng CSVN và Nhà nước Việt Nam toàn ban hành những điều luật và văn bản dưới luật hầu như đều vi phạm Hiến pháp. Chúng tôi sẽ thử kể ra 03 điều luật trong hàng trăm điều luật bị Đảng và Nhà nước vi phạm trong 147 điều luật đã ghi trong bản Hiến pháp.

Trước khi kể ra 03 Điều trong bản Hiến pháp bị Nhà nước Việt Nam vi hiến. Chúng tôi xin trích Điều 146, trang trọng thừa nhận văn bản Hiến pháp – 1992 (bản sửa đổi) này là văn bản “Luật-pháp-Mẹ”, tức văn bản gốc, tuyệt đối không được ban hành các văn bản luật và dưới luật đi ngược lại hiến pháp mà Điều 146 quy định như sau: “Hiến pháp nước CHXHCNVN là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”.

Như vậy, những điều ghi trong Hiến pháp đã được Điều 146 này khuôn vào mực thước: “Luật cơ bản của Nhà nước”, “Có hiệu lực pháp lý cao nhất”. Thế nào là “luật cơ bản”, thế nào là “hiệu lực pháp lý cao nhất”, thì mọi người đều dễ hiểu, dễ thống nhất với nhau. Ở đây, chỉ còn mệnh đề khẳng định mang tính tuyệt đối của bản “Hiến –pháp-Mẹ”:” Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Chúng ta cùng nhau tra từ điển để tìm đúng nội hàm của từ: ”Phù hợp”.
Theo từ điển Huỳnh Tịnh Paulus Của: “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” (Dictionnaire Annamite) (Ấn bản 1895-1896) do NXB Trẻ in lại 1998, trang 821, từ “Phù hợp”, được kêu bởi âm Nam kỳ là: “Phù hạp, hiệp: In nhau, giống nhau, hạp nhau”

Theo từ điền: “Tự - Điển ViệtNam“ của Ban tu thư Khai Trí, do nhà sách Khai trí ấn bản tại Sài Gòn 1971, định nghĩa như sau ở trang 672: “Phù Hợp: Đúng với nhau, ăn hợp: Về ngày tháng của hai việc xảy ra đã được phù hợp”

Theo “Đại từ điển Tiếng Việt” do Bộ Giáo Dục & Đào tạo, NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội 1998, định nghĩa từ “Phù hợp” ở trang 1344, như sau: “Trùng khớp, tương ứng với nhau: nội dung và hình thức phù hợp với nhau; có hoàn cảnh, tính cách phù hợp nhau ”

Như vậy, từ “phù hợp” trong Điều 146 của bản Hiến pháp 1992 phải được hiểu đúng với nội hàm của nó như định nghĩa của ba từ điển trên. Nghĩa là, bất cứ văn bản pháp luật và dưới luật nào của Nhà nước Việt Nam ban hành mà không giống in như những điều ghi trong Hiến pháp, không trùng khớp, không tương ứng, không đúng với nhau so với bản Hiến pháp thì đều vi hiến.

Rất tiếc, đa số pháp luật và văn bản dưới luật của Nhà nước Việt Nam đều đi ngược lại các điều đã ghi trong Hiến pháp. Xin vào trang web của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, mục “Hệ thống văn bản: Quy phạm Pháp luật” : www.vietnam.gov.vn. Chúng tôi chỉ trích ra đây 03 Điều trong Hiến pháp, từ Điều 68 đến Điều 70, để chứng minh Nhà nước Việt Nam là vua vi phạm Hiến pháp, chà đạp hiến pháp bằng hàng nghìn điều luật không “Phù hợp” với bản Hiến pháp là “Luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất” !

“Điều 68: Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật”.
Sau mỗi quyền công dân, bản Hiếp pháp điều có ghi câu: “theo quy định của pháp luật” để Nhà nước VN dễ đánh tráo khái niệm mà cho ra hàng nghìn văn bản luật và dưới luật đi ngược lại Hiếp pháp, không “giống in”, không “trùng khớp”, không “đúng với nhau”, không “tương ứng” với chính bản Hiếp pháp. Điều 68 trong Hiến pháp ghi rành rành: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong nước” nhưng Nhà nước Việt nam đúng là “ông vua vi hiến”, đã ban hành luật “hộ khẩu” chống lại Hiến pháp. Công dân Việt Nam được Hiến pháp quy định quyền tự do đi lại, tự do cư trú trong toàn quốc, mà mỗi lần đi khỏi nơi cư trú lại phải làm đơn xin phép công an xin tạm vắng, để đến nơi cư trú mới lại phải trình công an làm đơn xin tạm trú, y hệt thân phận tù, hay người dân Việt Nam chính là kẻ ở tù tại gia ?

Thảo nào Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã xác nhận chuyện tày trời: “Đảng CSVN sinh ra để trói nhân dân” (Nguyên văn câu nói của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Đảng sẽ cởi trói cho văn nghệ sĩ và trí thức”. Văn nghệ sĩ và trí thức là tinh hoa, là đầu tàu của nhân dân, mà Đảng xác nhận đảng đã trói văn nghệ sĩ, trí thức. Văn nghệ sĩ, trí thức vừa là tinh hoa, là đầu tầu của nhân dân, lại cũng là nhân dân. Theo phép tam đoạn luận, ta có một đẳng thức - một kết luận đúng ý của ông Tông bí thư Nguyễn Văn Linh là: “Đảng CSVN sinh ra để trói nhân dân !”

Cũng trong Điều 68, Hiến pháp cho công dân quyền: “Quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước” mà sao “ông vua vi hiến” là Nhà nước Việt Nam thường xuyên cấm các nhà bất đồng chính kiến, những công dân tự do không được phép ra nước ngoài; ví như vừa qua Bộ công an đã không cấp hộ chiếu phổ thông cho công dân Bạch Ngọc Dương, cấm thương gia Phạm Bá Hải quay về Ấn Độ làm việc là một ví dụ …

Điều 69 bản Hiến pháp 1992 ghi rõ ràng quyền của công dân Việt nam như sau: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”

Đây là những quyền quan trọng vào bậc nhất của người dân, cái quyền ghi rành rành trên Hiến pháp, quyền mà 95% loài người sống trong các nước văn minh, tiến bộ, dân chủ, tự do được hưởng, mà lạ thay người dân Việt Nam vẫn bị Nhà nước Việt Nam cấm hết. Đảng CSVN-Nhà nước VN ra hàng “tấn” điều luật và dưới luật gồm các nghị định, các chỉ thị, nghị quyết cấm nhân dân không được phép hưởng các quyền đã ghi trong Điều 69. Như đã nói trên, ông Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ = Đảng CS = Nhà nước VN bao giờ cũng chỉ là đầy tớ của nhân dân !”. Mỉa mai thay, bọn “đầy tớ” ra tới 600 tờ báo, trong khi “Ông chủ” là nhân dân tuyệt đối bị bọn “đầy tớ” cấm chỉ không được phép ra một tờ báo nào! Không có tự do báo chí, thì xã hội hoàn toàn không có tự do. Vài ngày gần đây, nhóm các nhà dân chủ gồm nhà văn Hoàng Tiến, nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, luật sư Nguyễn Văn Đài, kỹ sư Bạch Ngọc Dương… mới bàn nhau ra một tờ báo có tính nội bộ của nhóm trí thức yêu dân chủ tên là “Tiếng nói Dân chủ Tự do” tại Hà Nội, đã bị công an khủng bố hết sức dã man: bắt bớ, thẩm vấn liên tục, khám nhà tịch thu sách báo tài liệu và máy vi tính… thì “quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền được thông tin” ghi trong Điều 69 Hiến pháp ơi, ta chào mi, vì mi chỉ là Hiến pháp cuội, Hiến pháp lừa mà thôi !

Chính nhà nước Việt Nam đã chà đạp, vi phạm trắng trợn có tính hệ thống Điều 69 này của bản Hiến pháp bằng cách suốt hàng chục năm khủng bố, đàn áp, bắt giam nhiều nhà bất đồng chính kiến chỉ vì họ sử dụng những quyền công dân về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin đã ghi trong Hiến pháp…

Việc Nhà nước Việt Nam dùng bức tường lửa ngăn chặn các trang web hải ngoại trên Internet là vi hiến, phạm luật vì Hiến pháp ghi rành rành công dân có quyền được tự do thông tin. “Nghị định của chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet” vừa ban hành là một bắng chứng tố cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm Hiến pháp.

Điều 69 quy định công dân có quyền hội họp, quyền lập hội nhưng Nhà nước Việt nam đã vi hiến; ví như gần đây có một số anh em ủng hộ “tuyên ngôn dân chủ 8406” mời nhau ăn uống ở gần Hồ Con Rùa Sài Gỏn, đã bị công an quay phim, rồi lần lượt bắt bớ đày ải khốn cùng chỉ vì họ thực thi quyền hội họp, quyền lập hội có ghi trong Hiến pháp…

Điều 69 Hiến pháp thừa nhận công dân có quyền biểu tình mà Nhà nước Việt Nam ra điều luật phản Hiến pháp quá tức cười như sau: “cứ 05 người dân ra đường tụ tập là phải xin phép Nhà nước”. Đây là một thứ luật vớ vẩn sẽ muôn đời thành trò cười cho nhân loại. Xin hỏi Nhà nước Việt Nam: ví như gia đình chúng tôi gồm hai bố mẹ và ba đứa con đã lớn, chúng tôi muốn dắt ba cháu cùng đi bộ đến công viên tập thể dục, cần phải qua đường, cũng phải xin phép Nhà nước à?

Các cháu học sinh trong xóm tôi rủ nhau từng tốp năm bảy cháu đi học theo đội hình hàng một trên đường, cũng phải xin phép Nhà nước à? Một đám ma, một đám cưới đi bộ qua đường cũng phải xin phép à? Năm đến mười bà con nông dân làm đồng, xắn quần gánh phân, gánh lúa đi hàng một (tụ tập) trên bờ đê (đường) cũng phải xin phép Nhà nước à các ông Đảng CSVN từng vỗ ngực chế độ này tự do gấp triệu lần Mỹ, Anh, Pháp…ơi !?

Điều 70 trong Hiến pháp có đoạn viết như sau: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hay không theo một đạo nào”. Thế mà chính Nhà nước Việt Nam vi hiến bẳng cách cấm giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất của Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, cấm giáo phái Hòa Hảo của cụ Lê Quang Liêm, cấm hàng loạt giáo phái Tin lành truyền đạo… Đồng thời, Nhà nước Việt Nam kiên quyết chính trị hoá, Mác-xít hoá các tôn giáo bằng âm mưu biến các dòng đạo ở Việt Nam thành Đạo quốc doanh, cha cố quốc doanh, ông sư quốc doanh… Đó chính là hành động vi phạm trắng trợn tự do tôn giáo của Nhà nước Việt Nam…

Tựu trung, mọi pháp luật và các văn bản dưới luật, theo Điều 146 trong bản Hiến pháp quy định: rằng nếu các văn bản luật kia không phù hợp với bản Hiến pháp gốc, nghĩa là không giống như in Hiến pháp, không trùng khớp với Hiến pháp, không Đúng với khuôn mẫu Hiến pháp, không tương ứng, tương hợp, tương đồng với Hiến pháp… như hàng “tấn” văn bản luật do Nhà nước Việt Nam đã ban hành, thì thảy thảy đều vi phạm Hiến pháp.

Thế mà “Ông vua vi hiến” là Nhà nước Việt Nam lại đang đe dọa đưa các công dân Việt nam thực hiện quyền công dân đúng với Hiến pháp là các nhà dân chủ bất đồng chính kiến ra tòa, thì hỏi trên đời này, còn có gì ngược ngạo hơn?

Sài Gòn 14-8-2006
T.M.H.
Đăng bởi: Mai Xuân Dũng.