Trang

Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

CHỈNH ĐỐN ĐẢNG LIÊN QUAN THẾ NÀO VỚI NHÀ MÁY GIẤY


Ngày 27/2, tại Hà Nội, Bộ Chính trị đã tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Người ta trông đợi một cái gì đó mới mẻ nhưng ngay từ đầu, giống y như các bộ phim do nhà nước đặt hàng bằng tiền ngân sách, khi rạp kín chỗ, đèn đã tắt, tiếng thuyết minh vang lên, vài cảnh hoành tráng dạo đầu với các diễn viên gạo cội thủ vai là khán giả biết tỏng cái kết sẽ như thế nào. 
Chẳng có vị nào thực sự Chủ trì Hội nghị. Tất cả các đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Trương Tấn Sang - Chủ tịch nước, Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ, Nguyễn Sinh Hùng - Chủ tịch Quốc hội, Lê Hồng Anh - Thường trực Ban Bí thư, cùng tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng chủ trì, chỉ đạo Hội nghị. Tất cả các vị đều chủ trì để nếu nghị quyết chẳng đi đến đâu thì tất cả cùng chịu, đúng hơn là chả ai phải chịu gì cả giống như mấy chục năm nay vẫn thế, kẻ chịu hậu quả luôn luôn là nhân dân mà thôi.

                        

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Ảnh: HH 



Mà cũng phải thừa nhận là dân ta nhẫn nại vô cùng, “rất thuần”- như cách nói của đại ta Đỗ Hữu Ca Giám đốc công an Hải phòng, khi các vị lãnh đạo muốn cho cái gì là đúng y như rằng các vị dán ngay cái nhãn “Các tầng lớp nhân dân”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” là văn kiện hết sức quan trọng của Đảng. Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết đã được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đón nhận với một tình cảm vui mừng, phấn khởi, tin tưởng và nhất trí cao.
Nghe vậy, người dân giật mình không thể hiểu rằng qua đâu, bằng cách gì đồng chí Tổng bí thư đã kết luận rằng Nghị quyết đã được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đón nhận với một tình cảm vui mừng, phấn khởi, tin tưởng và nhất trí cao. Dù đảng chưa có bất kỳ một cuộc thăm dò dư luận rộng rãi trong nhân dân để lấy ý kiến đóng góp một cách công khai. Tổng bí thư còn cho rằng “Nghị quyết đã chọn đúng và trúng vấn đề hết sức quan trọng, nhìn nhận, đánh giá đúng tình hình với tinh thần tự phê bình rất cao, đề ra giải pháp phù hợp, nếu thực hiện nghiêm túc sẽ tạo chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, góp phần làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nguyện vọng tha thiết của toàn Đảng, toàn dân”. 
Đến đây,thấy rõ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn thiếu tự tin khi phải đưa vào văn kiện cụm từ rất năm ăn năm thua: “nếu thực hiện nghiêm túc sẽ”… Tức là Nghị quyết không được thực hiện nghiêm túc là chuyện rất có khả năng.
Cuối cùng "19 điều Đảng viên không được làm", do Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành tại quy định số 47-QĐ/TƯ năm 2012 thay cho quy định 115 bởi Bộ Chính trị ban hành năm 2007  là chuyện khá khôi hài vì hai quy địn này cơ bản chỉ là hai chị em sinh đôi được đặt cho hai cái tên khác nhau.
Tóm lại, Hội nghị này cũng giống những Hội nghị khác, nếu hôm qua ai đã từng trót kỳ vọng điều gì thì hôm nay và ngày mai cứ kỳ vọng tiếp. 
Chỉnh đốn đảng với cung cách này thì chỉ có mấy nhà máy giấy là "Phấn khởi, tin tưởng và nhất trí cao" mà thôi.

Mai Xuân Dũng



Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

HỘI CHỨNG SỢ CHỤP ẢNH

   

Sợ hãi là môt thuộc tính, một phản xạ, ở vài trường hợp là bệnh lý của con người.  Cuộc sống hiện đại có khá nhiều nỗi sợ. Có người sợ đi máy bay kiểu như Kim Jong Il, lãnh đạo Bắc Hàn. Rồi hội chứng lo sợ thường trực khi không có chiếc điện thoại trong người mà giới chuyên môn gọi là hội chứng nomophobia…Rất nhiều nỗi sợ.
Người Việt Nam có một “nền văn hóa”… sợ. Nó tác động vào cuộc sống của tất cả chúng ta hàng ngày, hàng giờ. 
Nhiều người mắc chứng sợ tăng lương. Bình thường được tăng lương ai chả mừng, đàng này các bà nội trợ nghe thông báo sắp tăng lương là sợ…vãi Doan, tim đập loạn nhịp, mồ hôi tóa ra, miệng khô khốc. Ở nước nào không hiểu chứ ở Việt nam chuyện này ai cũng hiểu: Lương tăng 1 vật giá lập tức tăng gấp đôi. Mà đã tăng là không có giảm. Tăng lương ít dân còn sống lay lắt chứ đảng chính phủ “quan tâm” tăng lương nhiều là dân ngoẻo luôn.
Làm một phép so sánh đơn giản, năm qua mức lương tăng khoảng 6 - 7%, trong khi lạm phát tăng đến 23%, đặc biệt giá lương thực - thực phẩm, tính riêng Hà Nội là 60%, TP.HCM tăng 50%, các địa phương khác tăng 20 - 30%.
Như vậy, tăng lương đã không thể bù lại được mức tăng của lương thực - thực phẩm. Nếu xét tổng thể: giá điện, nhà, tiền học… đều tăng lên thì mức lương càng tăng càng không đủ bù cho tăng giá. Bảo sao dân ta rất sợ tăng lương.
Rồi "Hội chứng" sợ chụp ảnh. Ở Việt nam, căn bệnh này là “sở hữu độc quyền” của những người làm việc tại các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là ngành Công an, cảnh sát. Kể từ khi bức ảnh “Bịt Miệng” trong Phiên Tòa Tiền Chế Tại Huế Ngày 30/03/2007 được đăng lên, đáng lẽ ngành Công an thay vì phải rút ra bài học   tôn trọng luật pháp nhưng họ càng tăng cường “bịt miệng”. Không những bịt miệng còn "bịt cả mắt". Đi đến đâu tại các cơ quan nhà nước thấy nhan nhản các tấm biển “Cấm quay phim chụp ảnh”. Trong các hoạt động dân sự được Hiến pháp quy định cho phép như Biểu tình, khiếu kiện, những người chụp ảnh thường bị Công an làm khó, nhẹ thì ngăn cấm đe dọa, nặng thì cướp máy ảnh, đánh người. Phóng viên Bản tin của AP Ben Stocking, trưởng đại diện của họ tại Hà Nội đã bị  công an Hà nội tịch thu máy ảnh, “đấm, bóp cổ và đập vào đầu khi đưa tin về cuộc cầu nguyện của giáo dân” gây bức xúc lớn đến mức Phát ngôn viên đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội, bà Angela Aggeler đã phải gửi lời phản đối chính thức lên chính quyền Việt Nam.
Vụ Tiên lãng vừa qua, chính quyền ăn cướp huyện Tiên lãng, chính quyền Hải phòng bằng mọi cách ngăn cản các phóng viên với đủ thủ đoạn hèn hạ nhưng những bức ảnh, video về cuộc cưỡng chế của “chính phủ” Hải phòng đối với cái đầm tôm của nông dân Đoàn Văn Vươn, những tấm ảnh, các clip về cuộc “phản pháo Thủ tướng” của ông Nguyễn Văn Thành-Bí thư thành ủy Hải phòng vẫn xuất hiện khắp nơi.
Phải nói cho rõ rằng, việc chụp ảnh quay phim là quyền và nghĩa vụ của mọi công dân được ghi trong Hiến pháp và được luật pháp thừa nhận. Công dân có quyền kiểm tra giám sát việc thực thi luật pháp của các cơ quan nhà nước. Chụp ảnh và quay phim chỉ bị hạn chế ở một số nơi đặc biệt nhằm bảo đảm bí mật, an ninh quốc gia.
Những bức ảnh, những đoạn clip chỉ là những tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống xã hội và là hoạt động dân sự hết sức bình thường.
Tại sao họ sợ chụp ảnh như vậy?
Hãy trả lời câu hỏi đơn giản nhất để thay cho câu trả lời. Một người đàng hoàng tử tế và một thằng ăn cướp thì ai sẽ là kẻ sợ chụp ảnh?
Liệu họ có thể ngăn cấm được các bức ảnh hay không khi trong thời đại công nghệ, mỗi chiếc điện thoại là một máy ảnh và mỗi người dân là môt “phóng viên”? Câu trả lời là: Không bao giờ làm được. Ngăn chặn những tấm ảnh là hành động vô vọng như lấy bàn tay che mặt trời. Sự thật có thể có lúc bị xuyên tạc, che lấp nhưng cố công tiêu diệt bằng được sự thật là một việc không bao giờ làm nổi.

Mai Xuân Dũng





Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

CÓ NÊN CÔNG AN HÓA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC?


Có nên Công an hóa bộ máy nhà nước?
Trong mọi vấn đề mà chính trị không là ngoại lệ, những nhầm lẫn chính sách hiện diện khắp nơi ở mọi giai đoạn lịch sử. Có những nhầm lẫn do ấu trĩ, có những nhầm lẫn mang tính hệ thống có chủ định.
Một ví dụ: Khi đời sống dân chúng được nâng lên từ chỗ ngày hai bữa, sáng sắn chiều cơm đến chỗ ngày ba bữa sáng phở, trưa cơm, chiều thích cơm có cơm thích phở có phở thì đảng bảo: dưới sự lãnh đạo của đảng, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và từng bước giầu lên. Ai cũng thừa nhận chuyện dân ta có cái ăn cái mặc tốt hơn trước nhưng bé cái nhầm ở chỗ đâu phải nhờ lộc đảng ban cho. Dân có cái ăn cái mặc do chính dân vẫn vật lộn với đất gội nắng dầm mưa như đã từng như vậy nhưng khác ở chỗ trước đây đảng trói dân trong cơ chế hợp tác hóa nhưng khi sợi thừng cơ chế được tháo bỏ, nhân dân đã thở được, chân tay được tự do nhiều hơn để hết lòng cày cuốc trên các thửa ruộng. Điều đó không phải đảng hay bất cứ ai ban cho.
Cũng vậy, tư duy của mấy chục năm trước ở lĩnh vực khác như quản lý tư tưởng có thể sẽ là sợi thừng trói chân tiến bộ xã hội trong khi tiến bộ xã hội là tiền đề cho bước đi của đất nước hướng  đến một xã hội công bằng, thúc đẩy sự giải phóng năng lượng sáng tạo của con người đóng góp vào tương lai phồn vinh cho một dân tộc, cho nhân loại. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định bổ nhiệm Trung tướng Phạm Dũng - Uỷ viên Đảng ủy Công an Trung ương, Tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh II, Bộ Công an - giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ. Việc thuyên chuyển cán bộ từ một lĩnh vực công tác này sang một lĩnh vực công tác khác là một việc rất bình thường trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên việc một cán bộ công an cao cấp được cơ cấu vào một lĩnh vực công tác vốn mang tính dân sự như Nội vụ và Tôn giáo lại là điều rất đáng quan tâm. Đó có phải là tư duy công an hóa bộ máy nhà nước và siết chặt quản lý Tôn giáo?
Trong bộ máy nhà nước Việt nam hiện nay, chức năng chính của Bộ Nội vụ là tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, quản lý cán bộ.
Nhìn vào hệ thống cơ cấu nhà nước có thể sơ bộ đoán định được tính ưu việt hoặc thiên hướng chính trị của nhà nước đó. Dù là nhà nước ở chế độ chính trị nào đi nữa thì : “Nhà nước là một bộ máy để cho giai cấp này áp bức giai cấp khác” (như  Lê nin đã từng viết).
Trong một xã hội có giai cấp, giai cấp bị áp bức luôn là giai cấp không có quyền lực, nghèo khổ muốn thay đổi số phận bằng tranh đấu. Bởi vậy, giai cấp có quyền lực, có đặc lợi phải dùng nhà nước làm công cụ áp bức, đè bẹp giai cấp kia. Trong bộ máy nhà nước, công an, cảnh sát  là một công cụ sắc bén đàn áp giai cấp đối kháng. Nếu nhà nước là một thanh gươm thì công an là lưỡi gươm. Trong cỗ máy nhà nước, một bộ không hoặc chưa có cán bộ công an làm nòng cốt sẽ là một điều “khiếm khuyết”?
Tất nhiên, bất kỳ một “công cụ nào” cũng có mặt trái của nó. Trong lịch sử phát triển các nhà nước, đã là “công cụ” thì “tố chất” cốt tử là phải được “rô bốt” hóa “lập trình” hóa. Trên thế giới đã từng có những Nhà nước cảnh sát. Thuật ngữ “Nhà nước cảnh sát” (police state) được dùng để chỉ một quốc gia mà chính phủ của nó thực hiện các biện pháp kiểm soát cứng rắn và có tính áp bức đối với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của toàn dân. Nhà nước cảnh sát thường bộc lộ các yếu tố của Chủ nghĩa toàn trị và kiểm soát xã hội. Thông thường, có ít hoặc không có khác biệt giữa luật pháp và việc thực thi quyền lực chính trị của người đứng đầu nhà nước trong một nhà nước cảnh sát. Nhưng nếu đưa công an cảnh sát nắm quyền lực trong bộ máy nhà nước có phải là một cứu cánh cho một nhà nước khi nhà nước đó bị mất niềm tin do lỗi hệ thống biểu hiện bằng các hiện tượng tham nhũng, bất công, ức hiếp quần chúng tràn lan?
Platon (427-347 tr.CN) – nhà triết học xuất sắc thời Hy Lạp cổ đại, ông tổ của thuyết duy tâm khách quan, xuất thân quý tộc, nhưng không chịu nổi thói cơ hội của bọn cầm quyền Athena. Bị thôi thúc  bởi cái chết bi tráng do dám đối đầu với nhà nước của ông thầy Xôcrat  đã ám ảnh ông suốt đời. Platon trăn trở tìm những phương cách để nâng cao chất lượng lãnh đạo nhà nước. Nhà nước lý tưởng, theo ông là mô hình được đề cập trong tác phẩm Cộng hòa. Theo đó, xã hội được cai trị bởi nhà nước chủ nô quý tộc, tồn tại trên cơ sở 3 đẳng cấp: những người cai trị xã hội, những người giữ xã hội và những người nuôi xã hội. Mỗi đẳng cấp có một quyền uy và địa vị khác nhau. Con người sống trong xã hội phải phục tùng nhà nước, phải sống vì nhà nước. Và để tồn tại nhà nước này, các nhà triết học và vệ binh không được có tài sản riêng, gia đình riêng vì họ làm việc công, nếu có tài sản riêng, gia đình riêng họ sẽ chỉ phục vụ cho gia đình mình, mang tài sản về nhà mình. Dù có mâu thuẫn và bất hợp lý, nhưng với tư tưởng này, Platon đã manh nha xóa bỏ chế độ tư hữu.
Hêghen, đại biểu tư tưởng cho giới quí tộc Phổ lại cho rằng Nhà nước Phổ (thế kỷ XVI - XVII) là "hình mẫu lý tưởng", là hình thức Nhà nước "tuyệt đích cuối cùng" mà loài người có thể mơ thấy và do đó trách nhiệm của mỗi công dân là phải phục tùng nó.
Đối lập với những quan niệm ấy, Mác và Ăngghen khi chứng minh và luận giải về tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản, đã đi đến kết luận rằng: chuyên chính vô sản là "đỉnh cao cách mạng" của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Song ngay từ lúc đó, các ông đã ý thức được rằng Nhà nước chuyên chính vô sản chẳng qua cũng chỉ là "Nhà nước nửa Nhà nước", là hình thức quá độ để nhà nước tiêu vong. Điều này được thể hiện rõ ngay trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". Khi phác thảo những nét cơ bản của xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai, Mác và Ăngghen viết: "... nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt chế độ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt cả sự thống trị của giai cấp mình”.
Đi tìm mặt trái của mô hình nhà nước chuyên chính, có thể đưa ra vài ví dụ ở Liên xô cũ, các nước trong khối Hiệp ước Vác sa va, Bắc Triều tiên hoặc ở nước ta, nếu nhà nước cơ cấu cho một số cán bộ công an đổi cảnh phục để mặc áo vét như trường hợp ông Nguyễn Văn Thành Bí thư Thành ủy Hải phòng là một trong nhiều ví dụ khác. Sự kiên quyết lạnh lùng khi quyết định điều động lực lượng công an quân đội hùng hậu để cưỡng chế một cái đầm tôm của nông dân ở Tiên lãng giống như thực hiện một chiến dịch quân sự vừa qua của chính quyền thành phố Hải phòng cho thấy vai trò “tố chất công an” đã đem đến một sự khủng hoảng chính trị tiềm ẩn nhiều nguy hiểm như thế nào.
Trong vụ việc cưỡng chế và hậu cưỡng chế đầm tôm của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, vai trò nổi bật của các ông Nguyễn Văn Thành, Đỗ Hữu Ca là không thể phủ nhận. Tính “rô bốt” và những hạn chế đương nhiên của nó, sự thiếu vắng tư duy nhân bản dẫn lối cho hành động đã khiến ông Thành ông Ca luôn “vấp” ở tất cả các khâu quan trọng trong quá trình “vận động theo lập trình cũ”. Một loạt các sai phạm nghiêm trọng như sử dụng quân đội đàn áp nhân dân, xả súng quá mức, ủi phá nhà nạn nhân của chính quyền Hải phòng chưa kịp sửa chữa thì các sai phạm tiếp theo: vu vạ, đổ tội phá nhà dân cho “nhân dân”, bao che, chối tội v.v và v.v…đã làm cho bộ mặt “nhà nước Hải phòng” lõa lồ trước công luận trong nước và thế giới. Chưa hết. Một khiếm khuyết bất ngờ khác ở Hải phòng  xảy ra ngoài sự tính toán của chính phủ. Khi người đứng đầu cỗ máy nhà nước “rì pe” con “rô bốt” Hải phòng, bỗng nó giở chứng tự “đoản mạch” tóe lửa, người vận hành trên thực tế bị “bỏng mặt”. Đó là việc ông Thành bí thư Hải phòng dám công khai “đánh nguội” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc tiếp xúc với các cụ hưu trí lão thành cách mạng tại câu lạc bộ Bạch Đằng.
Trở lại việc Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Trung  tướng công an cỡ Tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh II, Bộ Công an - giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ. Nếu trước đây Ban Tôn giáo chính phủ đã có thành tích trong công tác “quốc doanh hóa” một số Giám mục Giáo hội Công giáo thì thành tích đó cũng có mặt trái át cả cái “lợi” mà nó đem lại. Thành tích mậu dịch Công giáo đã làm chính quyền mất sự cảm nhận tinh tế chính trị nên mới để xảy ra những vụ Đồng chiêm, Cồn dầu, Khâm sứ, Thái hà. Hậu quả của chính sách đó chưa thể lường hết. Đây là các núi lửa đã tạm dừng phun trào nham thạch nhưng sự vận động nội tại tiềm ẩn các đợt bùng phát có thể dữ dội hơn nữa. Điều đó có xảy ra sớm hay muộn trong thời gian tới phụ thuộc nhiều vào yếu tố chính sách của Ban Tôn giáo chính phủ. Lợi bất cập hại là điều chắc chắn khi nhà nước tính toán để hiện thực việc công an hóa Ban Tôn giáo chính phủ. Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề tôn giáo cần phải được đặt ra như là một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi phải có những phương pháp giải quyết đúng đắn. Công an hóa Ban Tôn giáo có là khôn ngoan? Hãy đọc lại chính mấy ông tổ cộng sản Mác – Lênin đã từng chỉ ra rằng: “Chỉ những kẻ ngu ngốc mới tuyên chiến với tôn giáo”.
Tôn giáo là hiện thực tự nhiên của sự vận động tất yếu trong xã hội con người. Mác nói: Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Dùng bạo lực tiêu diệt giai cấp, tiêu diệt Tôn giáo cũng có nghĩa tiêu diệt luôn cả những điều kiện của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt cả sự thống trị của giai cấp mình. Cách thức đưa Việt nam trở lại một thể chế Nhà nước cảnh sát như Bắc Triều tiên hiện nay  chắc là con đường ngắn nhất đến với một nhà nước tiêu vong.
Đó là lý thuyết được thực tế kiểm chứng trên khắp thế giới từ Ceausescu đến Gaddafi. Lẽ nào ở điều kiện Việt nam với hơn 80 triệu dân, tính“đặc thù” sẽ hoàn toàn khác với quy luật tự nhiên phổ quát của toàn thể nhân loại?
Trong một thời điểm nào đó, thực thể vận hành “rô bốt” liệu có thể là nạn nhân, là đối tượng chịu sự điều khiển của chính cỗ máy mình tạo ra?

Mai Xuân Dũng.

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

ĐÀ LẠT



Khi loanh quanh ở quãng thời gian “tri thiên mệnh”, lũ đàn ông bắt đầu dè xẻn tiêu dùng phẩm hạnh, thứ được cho là vô giá trong cuộc hành trình cuối cùng nhưng cũng đã phung phí quá nhiều lúc thủa còn trai trẻ.Tất nhiên khái niệm “phẩm hạnh” là tương đối vì còn phụ thuộc vào tính nết, sức khỏe, điều kiện gia đình, đặc điểm địa lý và dĩ nhiên là cả viền tý dày mỏng đến đâu.
Quán cà phê không ở trung tâm phố nhưng là phố trung tâm cà phê. Chẳng đông đúc đến độ phải ngóng mỏi cổ cô nhân viên mông cong mới đem đến hai ly đen nóng và bạc sỉu. Chẳng vắng đến độ đôi khách tuổi hoa nở hết tầm phải ngượng ngùng vì ánh mắt thóc mách của chủ quán. Biết đâu đó cũng chỉ là ám ảnh lúc không còn xuân thì.
Nghĩa là quán cà phê đúng típ dành cho dân lỡ độ tình.
Hương cà phê Arabica đất bazan không thể lẫn lộn với bất kỳ loại cà phê nào. Mùi thơm hoang dã bay lên từ hai cái phin inox luồn vào từng tế bào khứu giác đem đến một cảm giác vừa đắng cay vừa đê mê.
Họ nói không quá nhỏ như những cặp tình nhân trẻ trung và không lớn tiếng quá như những bà buôn hàng vải tấm hoặc những tay chơi trứng sàn HNX index hoặc Hose. Ở cái độ tuổi này, tâm thế tự ý thức về danh dự của mình cộng với kiến thức được tích lũy trong phép tắc trong ứng xử bắt họ tuân thủ “lộ trình” ẩm mốc thời phong kiến. Cái lạnh của vùng cao nguyên diễm tình và sự trầm mặc thanh tịnh của nó cùng những quy tắc bất quy tắc ấy làm cho câu chuyện buổi ban đầu trở nên thật mong manh cho cơ hội gặp gỡ lần sau. Sự rào đón là điều dĩ nhiên, ai cũng muốn tiến lên nhưng ý thức lại nhắc họ rằng hãy ưu tiên cho cuộc tháo chạy trong an toàn. Sự thông minh, tinh tế không phải bao giờ cũng là  tốt cho tương lai một tình bằng hữu có pha đôi chút chất lỏng lóng lánh của tình yêu. Thứ tình yêu long lánh như thủy ngân trong ống nghiệm.
Anh kể cho cô nghe những trải  nghiệm trên đường ra Bắc vào Nam từ những lần nào đó còn đọng lại trong đầu. Cuộc hành trình dọc cái lưng còng Mẹ Việt nam thật là dài bởi sự nghèo khó của phong cảnh. Sự giống nhau đến đơn điệu của làng mạc bám theo quốc lộ 1, những mái ngói thấp tè, những đám trẻ đông đúc bụng to chân leo teo cởi truồng trước sân nhà mọc đầy cỏ lác vàng ệnh làm con đường dường như dài bất tận. Từng dẫy đồi sắn lêu đêu, dây leo lẫn cúc quỳ bám đầy bụi đường, những cồn cát trắng nổi lên lô xô những ngôi mộ cùng với những cây quạt khổng lồ của máy phát điện nhờ gió đủng đỉnh quay ở miền Chàm Ninh thuận.  
Cô lặng lẽ nhìn vào ly nước trong vắt bên tách cà phê như tìm trong đó ý nghĩa của câu chuyện anh kể thỉnh thoảng đánh dấu vào những chương không có chủ đích bằng tiếng “thế ạ” rất ít mầu sắc.
Câu chuyện rời rạc, hơi khô khan không chắc đã là tệ mà có thể là dấu chỉ sự chân thành. Khi người ta có thể thao thao như nước chảy hoặc líu lo như họa my trong lần gặp gỡ đầu tiên đôi khi minh chứng cho mức độ nông cạn của tâm hồn. Không có dòng suối nào trong thiên nhiên lại chảy trơn tuột trong lòng ống cống cấp nước Phần lan cả.
Ngoài xa, hồ Xuân Hương xanh biếc như màu nước ở bể bơi của các Resort Nha trang. Tháng 10 là độ đẹp nhất của Đà lạt. Hoa lưu ly rực rỡ bên tulip. Những dàn cẩm tú cầu chạy dài nở trắng các lối đi. Lượn quanh hồ là thảm cỏ mướt xanh chạy dài đến chân các hàng rào sắt cổ kính phủ đầy hoa dã quỳ bao quanh từng ngôi biệt thự kiến trúc kiểu gotic với tường trần gạch đỏ. Viền quanh những ô cửa sổ sơn trắng là dàn hoa tygon và dây leo nắp ấm. Không gian trong vắt của trời xanh mây trắng được nối xuống đất bằng những hàng thông lá kim cao vút rì rào gợi nhớ tới các triền đồi bên rừng Boulogne và Vincennes ở Paris. Đà lạt là cô gái mắt xanh giữa các đô thị ồn ào châu Á.
Khi gió hồ phóng khoáng cuốn từng làn hơi nước tỏa vào không gian lạnh giá, hai người đáng lẽ xích gần lại với nhau thì chính họ lại bất giác kéo cao cổ áo thu mình lại trong chiếc ghế mây rộng. Khoảng cách giữa họ như càng xa hơn. Có thể cái dũng khí trong các e-mail làm họ ngộ nhận về nhau. Giữa thế giới thực tại và thế giới ảo là một chặng đường dài từ trái đất đến dải ngân hà. Những người tự trọng vĩ đại trên mạng rất có thể trở nên ích kỉ trong cuộc đời khi chẳng thể hiện sự dũng cảm xóa bỏ khoảng cách giữa hai cái ghế mây và một chiếc bàn trà. Có thể sự đường đột nắm bàn tay bạn gái mới quen có phần thô thiển thiếu tinh tế và lãng mạn nhưng tình cảm lãng mạn thật sự sau cái nắm tay đó lại theo họ đến hết phần đời còn lại.
Nhưng chuyện tình ở đó không xảy ra. Có lẽ Đà lạt là thiên đường cho tình yêu mang từ nơi khác tới nhưng hình như không phải nơi nhóm lên ngọn lửa tình…

Mai Xuân Dũng

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

ĐÁNH NGUỘI THỦ TƯỚNG



Những người ưa thích phim Bao thanh thiên khoái ví von Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với Bao công sau vụ ông “nghị án” các huyện quan Tiên lãng cưỡng chế đầm tôm nhà ông Vươn.
Nếu vụ án chỉ ở phạm vi Tiên lãng với những hung thần cấp xã, huyện như anh em nhà  Liêm Hiền, Khanh…tội trạng rành rành thì có lẽ mọi chuyện kết thúc với vài lệnh bài cẩu đầu trảm bay giữa án đường. Khổ cho Thủ tướng, cái quyết định cưỡng chế ác nghiệp này lại được Thành ủy, UBND Hải phòng chống lưng, còn vì sao chống lưng là một câu hỏi to tướng ai cũng hiểu chỉ có điều…vờ không hiểu. Chả thế mà khi vụ cưỡng chế xảy ra, đích thân ông giám đốc công an Thành phố đại tá Đỗ Hữu Ca thân chinh mặc áo chống đạn tả xung hữu đột đốc thúc cả quân lẫn chó bắn, phá nhà bọn nhân dân Đoàn Văn Vươn, khác gì một trận giết thù lưu huyết vết đạn còn đây. May mà đám vợ con anh Vươn anh Quý đã nhanh chân trốn kịp ra an toàn khu nếu không chẳng biết chuyện gì còn tiếp tục xảy ra…
Khi Thủ tướng đã ra Thông báo kết luận về các sai phạm của Tiên lãng, những tưởng mọi chuyện ở Hải phòng sẽ đâu vào đấy nào ngờ trống cái án đường  dứt tiếng chưa được bao lâu, ông Nguyễn Văn Thành chẳng những chấp hành theo kiểu Sạc lô mà còn ăn miếng trả miếng chan chat, chỉ trong một ngày đã “đánh nguội” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới hai lần.

































Cú đánh nguội thứ nhất là phát “đá đít” Thủ tướng bằng việc cái lều nhà anh Vươn bị phá tan hoang. Vụ này gây cho công luận có cảm giác Thành ủy Hải phòng chẳng coi Thủ tướng là cái đinh vít gì, vì ai cũng đã biết: Trước đó Thủ tướng có chỉ đạo làm rõ, khởi tố việc phá nhà ông Vươn trong vụ cưỡng chế vừa qua. Việc phá lều của nạn nhân khác gì ông Thành gửi mét xịt cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rằng: “Ông chỉ đạo khởi tố việc lính Tiên lãng phá nhà hai tầng của thằng Vươn hả? đã thế bây giờ cái lều tạm của nó tôi cũng cứ cho phá mẹ nó đi xem làm gì được nhau nào?”.
Cái cách “đánh nguội” phá lều dân của ông Thành Bí thư có nét giống ông Ca trong trận “đánh đẹp” 5/1. Hỏi ra mới biết ông Nguyễn Văn Thành xuất thân công an quận Hồng Bàng. Thảo nào cách “ra chân” không khác ông Ca bao nhiêu, dù chẳng cùng mầu đai võ sỹ nhưng chiêu thức đúng là từ một lò luyện mà ra.


Cú đánh nguội thứ hai là phang vào gót chân Thủ tướng. Nhớ hôm nào nguyên Đại tướng Lê Đức Anh mở màn công luận, sau đó ngày 15/1 Thủ tướng tiếp ngay bằng công điện yêu cầu Hải phòng phải điều tra làm rõ vụ việc Tiên lãng, báo cáo Thủ tướng chính phủ.
Đúng cách Thủ tướng đã dùng, ông Nguyễn Văn Thành cũng chơi luôn chiêu “mượn oai” các cụ lão thành ở Bạch Đằng Cờ lúp để nói xấu báo chí, phản pháo Thủ tướng.
Không biết các mối quan hệ nhằng nhịt giữa các cá nhân và cơ chế quản lý cán bộ cao cấp của đảng đã chi phối đến đâu trong nhưng những diễn biến vừa qua nhưng điều hiển nhiên là Thành ủy Hải phòng tỏ ra rất “rắn mặt” trong việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng. Người ta đồn đại ông Nguyễn Văn Thành là “chiến hữu ruột” cùng quê Ninh Bình với ông Trần Đại Quang bộ trưởng công an nên ông Thành chả ngán Thủ tướng là bao nhiêu.
Thực hư chẳng rõ thế nào nhưng “trên sân” thấy rõ ông Nguyễn Văn Thành “đánh nguội” Thủ tướng bằng “cú đúp” trong một ngày đủ thấy tình hình…rất là tình hình.
Thật đúng là Trời đã sinh ra “Bao trửng” sao còn sinh ra “Quách Hòe”.

Mai Xuân Dũng

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

NHÌN LẠI SỰ KIỆN THÁI BÌNH

 Từ vụ nông đân Đoàn Văn Vươn nổ súng vào đoàn cưỡng chế của huyện Tiên lãng dưới sự chỉ huy trực tiếp của công an Hải phòng cần nhìn lại sự kiện vụ nổi dậy của nông dân Thái bình năm 1997. Đọc lại hồ sơ Thái bình, báo cáo của GS Tương Lai

Báo cáo sơ bộ
về cuộc khảo sát xã hội học tại
Thái Bình
cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm 1997


Tương Lai



Tác giả bản báo cáo này lúc đó là viện trưởng Viện xã hội học Việt Nam, thành viên Tổ Nghiên cứu Đổi mới của Thủ tướng Chính phủ (Tổ này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giải tán vào mùa hè năm 2006).
Bản báo cáo này đã được trích dẫn trên báo Diễn Đàn số 77 (tháng 9.1998) và tại Hội thảo hè năm 1999 họp tại Liège (Bỉ). Nay được tác giả công bố toàn văn trên mạng Bauxite Việt Nam ngày 30.1.2012.
Thái Bình, mười lăm năm sau, ra sao ? Một nhà nghiên cứu xã hội hội vừa có dịp đi thăm xã An Ninh (huyện Quỳnh Phụ) cho biết : "Cả hai bên đều mỏi mệt vì cuộc bạo động tự phát : người cầm quyền thì thân tàn ma dại, có người bỏ làng đi tít vào Tây Nguyên lập nghiệp nhưng rồi cũng vất vưởng, có người thì nằm bẹp ở nhà trong đôi mắt nghi ngờ, lãnh đạm của chòm xóm, và nói chung là đều tàn tạ, nhường chỗ cho một lớp cướng hào mới lên nắm những vị trí của mình một cách khôn ngoan và ranh ma hơn  nhiều bậc đi trước. Phía bên kia, những người tham gia vào vụ bạo động thì cũng ê ẩm mình mẩy, có người đi tù 5 năm về (như bà Hợi, một phụ nữ ngoài 50, sống độc thân, thất học, đi tù vì một câu chửi mà mọi người đều nghe được, trở thành "nhân chứng vật chứng không thể chối cãi": "Đánh bỏ mẹ thằng Hàm đi" [Hàm là chủ tịch xã]. Khi tôi gặp lại bà, bà chỉ gật đầu chào, lầm lì không nói gì cả, chỉ thở dài ngao ngán !) Phần lớn những người tham gia bạo động đêm 26, rạng sáng 27 tháng 6.1997 năm ấy thì im lặng, cam chịu và chôn sâu những phẫn uất cũng như những trải nghiệm dại dột vì đã làm bùng lên ngọn lửa để bị dập tắt ngay và chỉ còn lại đống tro tàn của bài học chua xót. Tuy nhiên, mâu thuẫn nội tại thì vẫn còn trầm tích lại đó, ngày càng vón cục lại chứ không thể tan đi được."



Sự kiện đêm 26 rạng ngày 27/6/1997 ở xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình như một hồi chuông báo động khiến chúng ta cần tỉnh táo nhìn nhận lại về hậu phương vững chãi của chúng ta để có những suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân trong sự nghiệp Ðổi mới và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp.
An Ninh là lá cờ đầu của huyện Quỳnh Phụ, và cũng có thể nói là lá cờ đầu của Thái Bình, một điển hình tiên tiến đã từng là quê hương của phong trào 5 tấn trước đây và hiện nay luôn luôn là lá cờ đầu của nhiều phong trào quần chúng chiếm lĩnh đỉnh cao thành tích về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, v.v. Gần đây Thái Bình càng nổi bật trong việc triển khai chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt với 4 công trình lớn : Ðiện, Ðường, Trường, Trạm [trạm y tế] cùng tiến hành đồng thời và thu được những thành tích lớn, tạo ra một diện mạo khang trang đẹp đẽ của một tỉnh lúa đồng bằng sông Hồng mà khách tham quan có thể ngồi trên ô tô đi khắp các xã trong tỉnh trên con đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ đã rải nhựa hoặc lát gạch phẳng lì !
Ấy thế rồi, đêm 26, rạng 27/6/97 hàng ngàn nông dân nổi dậy đập phá chậu cảnh tường hoa, bàn xa lông tiếp khách, bát đĩa dùng liên hoan và chiêu đãi, kính tủ bàn của trụ sở ủy ban xã, một tòa nhà uy nghi, lộng lẫy vừa xây tốn hơn 800 triệu đồng. Rồi sau đó, dân kéo đi đập phá 8 ngôi nhà của bí thư Ðảng ủy, Chủ tịch ủy ban, cán bộ địa chính và các bậc chức sắc khác nhau của xã (chỉ có một nhà của một người dân làm việc nấu nướng phục vụ hội nghị và khách của xã). Sau đêm hỗn loạn, giận dữ, đốt phá, sáng mai hoạt động của xã lại bình thường, người ta lại vẫn ra đồng họp chợ, đi lại chuyện trò vô tư !
Ba ngày sau sự kiện nói trên, theo yêu cầu của Tổ Nghiên cứu Ðổi mới của Thủ tướng Chính phủ thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đoàn cán bộ xã hội học chúng tôi về xã An Ninh, được Bí thư Ðảng ủy tiếp tại trụ sở mà kính vỡ, mảnh bát đĩa vỡ, chậu cảnh vỡ vẫn ngổn ngang, kể cả một tượng Bác Hồ bằng thạch cao trắng bị vỡ vẫn nằm ở góc bàn trong hội trường và theo lời của Bí thư Ðảng ủy xã thì "Hiện trường vẫn được giữ nguyên" như để nói lên tính phản loạn không thể dung tha được và cần phải trấn áp ngay của vụ bạo động 26-27/6/97.
Vấn đề gì đã diễn ra ở đây ? Nguyên nhân vì đâu ? Hậu quả ra sao ? Diễn biến sắp tới sẽ thế nào ? Cần có kiến nghị gì đây từ sự tiếp cận xã hội học ? Ðó là vấn đề đặt ra cho chúng ta, ba nhóm nghiên cứu gồm 10 người.
Một nhóm về ở ngay trong lòng điểm nóng : xã An Ninh gồm 4 người (1 Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ, Trưởng phòng Xã hội học nông thôn, 1 Bí thư chi bộ và là Trợ lý của Viện trưởng, 1 Phó Tiến sĩ Trưởng phòng Tổ chức và Đào tạo cán bộ, đảng viên, 1 nữ cán bộ nghiên cứu của Phòng Xã hội học nông thôn, đảng viên).
Một nhóm gồm ba cán bộ, do một Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ và là Phó Viện trưởng phụ trách khoa học dẫn đầu, một cán bộ nghiên cứu, Phó Phòng Xã hội học nông thôn, một cán bộ trẻ (cả hai đều là người quê ở Thái Bình, đang có họ hàng ở Thái Bình) đi theo tuyến rộng, dọc theo đường Hà Nam, Nam Ðịnh, qua Tiền Hải, vòng về thị xã, qua Ðông Hưng, Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Kiến Xương để tìm hiểu âm vang và độ nhiễm cảm của các sự kiện bạo động trong tỉnh.
Một nhóm xuất phát sau một tuần, đến huyện Thái Thụy nơi có điểm nóng Thái Thịnh để đo sự diễn biến sau sự kiện An Ninh và dư luận quần chúng về các giải pháp của chính quyền Tỉnh đã áp dụng. Nhóm này gồm một Phó Giáo sư, ba Phó Tiến sĩ đều là đảng viên, trong đó có một chuyên gia đã từng có công trình nghiên cứu sâu về nông thôn và về Thái Bình, đang làm luận án Tiến sĩ sẽ bảo vệ tại Pháp về đề tài nông thôn Việt Nam.
Ðồng thời với các nhóm đi khảo sát tại Thái Bình, Viện trưởng Viện Xã hội học đã giao nhiệm vụ cho một Phó Tiến sĩ Phó Trưởng Phòng Xã hội học dân số và Gia đình đang cùng với các cán bộ triển khai một đề tài nghiên cứu về hộ kinh tế gia đình và địa vị của người phụ nữ kết hợp khảo sát thêm về chủ đề như nhóm nghiên cứu sâu ở Thái Bình đang làm, hiện triển khai tại Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cũng như thế, sau khi kết thúc nghiên cứu ở Thái Bình một tuần, Viện trưởng Viện Xã hội học đã trao nhiệm vụ cho một đoàn nghiên cứu tại 10 xã trong 3 tỉnh (Hà Nam, Nam Ðịnh, Ninh Bình) về đề tài biến động dân số thu thập thêm tư liệu về chủ đề như đã nghiên cứu ở Thái Bình, người phụ trách này là một nghiên cứu sinh đang làm luận án Tiến sĩ ở Mỹ về dân số, là đảng viên, kết hợp với đồng chí Bí thư chi bộ đã từng nghiên cứu ở Quỳnh Phụ, Thái Bình cùng tiến hành, và cũng chỉ hai đảng viên này thu thập số liệu để báo cáo trực tiếp cho Viện trưởng. Công việc đang được triển khai và sẽ bổ sung vào báo cáo tổng kết này.
Bản báo cáo tổng kết này là dựa trên các tư liệu thu thập được qua phỏng vấn sâu, quan sát trực tiếp, các văn bản của tỉnh, huyện, xã (băng ghi âm ghi lời người được hỏi và tập hồ sơ ghi lại nội dung đã thu vào băng) cùng với 8 báo cáo của các cán bộ đi khảo sát và sơ kết của nhóm khảo sát. Vì đây chỉ là thông tin được thu thập qua phỏng vấn, chuyện trò và lời người kể có thể là người trong cuộc, người chứng kiến, người nghe kể lại không khỏi bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan, cho nên các số liệu (cho dù ghi thành con số) cũng chỉ có ý nghĩa phỏng chừng, tương đối khác với thống kê và báo cáo chính thức của người có trách nhiệm ở địa phương. Người viết báo cáo, trong trường hợp có dẫn ra các số liệu cũng là để gợi lên tình huống, không mang tính biểu đạt thật chính xác.


I. Tổng quan về các sự kiện dẫn đến
sự bùng nổ ở Thái Bình


Những ngày cuối cùng của tháng 6 năm 1997 đã cho thấy tính nghiêm trọng của một loạt những sự biến đã xảy ra ở một phần lớn các vùng nông thôn tỉnh Thái Bình. Ðã có tới 5 (Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền Hải, Ðông Hưng, Thái Thụy) trên 7 huyện và thị của tỉnh có phản ứng và khiếu kiện của nông dân về những vấn đề dân chủ và công bằng xã hội trong nông thôn. Nội dung chủ yếu của những khiếu kiện này tập trung xung quanh việc đòi thanh tra và công khai hóa việc phân chia ruộng và nhất là việc thu và chi những khoản đóng góp mà chính quyền địa phương (xã và huyện) thu của nông dân trong những năm qua để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong nông thôn, chủ yếu là các công trình : Ðiện - Ðường - Trường - Trạm.
Xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó đặc biệt là các công trình Ðiện - Ðường -Trường - Trạm là một chủ trương đúng đắn của tỉnh, rất hợp với nguyện vọng của dân. Người dân Thái Bình nói chung rất tự hào về hệ thống đường giao thông liên tỉnh, liên huyện và liên xã của họ.
Ðiều đáng nói ở đây là các công trình này đã được thực hiện trong 5 năm qua với một tốc độ và nhịp điệu quá nhanh. Do đó các khoản thu từ nhân dân cũng tăng nhanh chưa từng thấy. Năm 1991, tỉnh chủ trương chỉ đảm bảo cho 65 % các hộ trong tỉnh có điện dùng vào năm 1995. Nhưng cuối năm 1992 đã có 70 % số hộ (báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh, tháng 10 năm 1992) và năm 1996, 100 % số hộ trong tỉnh đã có điện dùng, toàn bộ đường tỉnh đã được nhựa hoặc xi măng hóa hết và 2/3 số trường học trong tỉnh đã là nhà cao tầng. Nguồn vốn để chi cho các công trình này chủ yếu lấy từ các nguồn trong tỉnh.
Trong ba năm 1988-1990, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật là 39,5 tỉ đồng, trong đó 9,5 tỉ là do Trung ương cấp, 30 tỉ là từ huy động ngân sách trong tỉnh. Nhưng phần vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân và tập thể cũng rất lớn. Ngoài ra, các quỹ giao thông xóm xã cũng ra sức phát triển. Có nơi còn chủ trương "cứng hóa kênh mương" để tăng nhanh các nguồn thu từ nhân dân (Thái Thụy). Phải chăng các khoản thu này là quá lớn so với khả năng đóng góp của người nông dân Thái Bình vốn chỉ có nguồn thu từ hạt thóc là chủ yếu ?
Cơ cấu thu nhập của tỉnh vào năm 1991 cho thấy 81 % là thu từ nông nghiệp. Các khoản thu này lên tới chừng trên dưới 35 khoản, thay vì 14 khoản theo quy định của huyện và 7 khoản theo quy định của tỉnh. Ðiều cần lưu ý là các khoản thu và chi này đã không được sử dụng một cách công khai và dân chủ. Các khoản thanh toán được công bố lại cho thấy có dấu hiệu của sự lạm dụng công quỹ, bởi nó vượt quá xa các định mức chi phí trên thị trường (giá của các công trình xây dựng thường cao gấp nhiều lần giá trị thực tế của chúng). Một chiếc cống thoát nước do chính quyền xã xây đã quyết toán tới 21 triệu đồng, nhưng khi dân đập đi xây lại thì chỉ mất 7,5 triệu đồng (xã Quỳnh Hồng). Trong khi đó, một số cán bộ chủ chốt ở một số địa phương lại có biểu hiện giàu lên nhanh quá mức bình thường trong năm năm qua, cùng với sự giàu lên trông thấy qua nhà cửa, các phương tiện sử dụng trong sinh hoạt là những nét xa hoa kệch cỡm về lối sống của một số người dễ dàng gây phản ứng trong quần chúng.
Nhân dân một số địa phương đã có đơn khiếu kiện lên xã, huyện, thậm chí cả tỉnh với các hình thức hợp pháp, từ đưa đơn có nhiều chữ ký cho một người đi gặp các cấp lãnh đạo có thẩm quyền (Tiền Hải, xã Ðông Trà), tới việc tập trung vài chục hay vài trăm người trước cổng Ủy ban tỉnh từ cuối năm 1996 (Quỳnh Hội : tháng 10/1996, 700 người lên tỉnh 2 đêm 1 ngày để trình đơn khiếu kiện, sau đó là đợt 2, với 1.500 người, đòi thanh tra lại đất 5 % vào tháng 4/1997). Người ta ước tính có chừng 120/260 xã trong tỉnh có biểu tình đưa đơn và từ chỗ đi lẻ tẻ, dần dần hình thành tổ chức quy mô hơn, người ta cho rằng có chừng 40 cuộc biểu tình lên tỉnh được tổ chức có quy củ và trật tự.
Những cuộc khiếu kiện này thường được tiếp đón một cách không nhiệt tình. Cách trả lời thường là sự im lặng kéo dài, hoặc lờ đi, hoặc cho thanh tra công khai nhưng kết luận không có gì. Những vấn đề này, thực ra, đã nảy sinh từ những năm 86-90 song cách giải thích chính thức của các cấp chính quyền từ xã, đến huyện, đến tỉnh về những sự kiện trên thường cho đó là "những biểu hiện tiêu cực nảy sinh do một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền tham nhũng, đè nén dân, làm mất uy tín của Ðảng và Nhà nước. Mặt khác cũng là do một số người lợi dụng việc mở rộng dân chủ trong quá trình đổi mới và những khó khăn đang gặp phải đã có hành động cực đoan quá khích, thậm chí tiếp tay cho địch, gây rối nội bộ, nói xấu Ðảng và Nhà nước". Những cách giải thích này không thuyết phục được quần chúng, nhất là vì nó chưa đưa ra được những giải pháp có hiệu quả thiết thực.
Từ tháng 5 năm 1997, những sự biến xảy ra dồn dập hơn, mãnh liệt hơn, và có chiều hướng sử dụng bạo lực từ cả hai phía, để răn đe hoặc để giải quyết những vấn đề đang tồn tại.
Sự xuất hiện của cảnh sát cơ động dường như đã đặt các cuộc biểu tình hợp thức vào tình thế bế tắc. Xu hướng bạo lực ngày càng có khả năng trở thành hiện thực. Sự kiềm chế và tính tổ chức ở những người biểu tình càng giảm sút thì các sự biến xã hội càng khó kiểm soát. Người ta chứng kiến một cuộc khủng hoảng chính trị xã hội thực sự trong nhiều xã và huyện của nông thôn Thái Bình.
Ngày 11 tháng 5 năm 1997, theo lời ước đoán thì có khoảng 2000 nông dân Quỳnh Phụ thuộc trên dưới 36 trong 38 xã của huyện đã tham gia vào cuộc biểu tình từ xã lên tỉnh bằng xe đạp và sau đó ở lại tỉnh 2 ngày 1 đêm, gây ảnh hưởng lớn trong toàn tỉnh. Cũng theo lời kể lại thì trong khi cuộc biểu tình này đang cố gắng thể hiện thái độ nghiêm túc và thận trọng trong việc bày tỏ nguyện vọng của đông đảo nhân dân trong huyện, thì ở trước trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện Quỳnh Phụ, cuộc tập trung của nhân dân nhiều xã trong huyện, cứ đông dần lên vì người các nơi ùn ùn kéo đến, có người ước lượng là có đến 1 vạn (?) người. Khi đám đông đã đến quy mô như vậy, chỉ cần một hành động quá khích là có thể dẫn đến những bùng nổ không sao kiềm chế được.
Theo lời người kể lại, thì do cách xử sự thiếu khôn ngoan và không thỏa đáng của một số người đại diện cho quyền lực nhà nước, dân phẫn nộ đã dùng bạo lực, phá trụ sở công an huyện, tấn công bằng gạch đá vào lực lượng an ninh có trang bị xe phun nước và chó béc-giê. Trước 500 công an, với 3 xe vòi rồng, dùi cui lá chắn, dân bảo nhau chuẩn bị nếu bị phun nước thì cả đàn ông, đàn bà sẽ cởi hết quần áo ra tắm. Công an ném 10 quả lựu đạn cay, dân phá hỏng một xe vòi rồng trong tiếng kêu "thế này thì dân chết mất", lại có tiếng "thà chết còn hơn sống khổ". Công an được lệnh không đánh lại dân. Nhưng khi trời tối, dân phát hiện có công an mặc thường phục trà trộn vào đám đông quần chúng. Thế là diễn ra cảnh bi hài, dân hô : "cứ xem thằng nào đi giày da, sờ vào bụng thằng nào to tức là không phải dân, nhằm vào nó mà nện". Công an bị thương 9, 10 người, dân bị thương vài chục. Công an bị thương được đưa vào bệnh viện, nhưng dân bị thương thì không vào vì sợ bị phát hiện nên khiêng về làng tất.
Dẫn đến cuộc bạo động này là chuyện dân bao vây Viện Kiểm sát huyện Quỳnh Phụ đòi thả hai người đánh kẻng tập hợp dân, đã bị bắt. Cuộc xô xát này, cho dù không để xảy ra tử vong song đã là bước ngoặt dẫn đến những sự biến sau này ngày càng bạo liệt hơn, bạo lực nhiều hơn và ngày càng mang tính trả thù hơn là đấu tranh hợp pháp.
Ðiều đáng lo ngại nữa là các huyện khác trong tỉnh đều coi cuộc đấu tranh này của người dân Quỳnh Phụ đã trở thành mô hình cho cách đặt vấn đề và phương thức đấu tranh của họ. Một mặt, những người khởi xướng cuộc khiếu kiện, rồi biểu tình bày tỏ sự nhiệt thành với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, giữ gìn sự trong sáng của Ðảng, bảo vệ sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân do Ðảng và nhà nước phát động. Mặt khác họ kêu gọi tinh thần cố kết cộng đồng làng xã vốn tiềm tàng trong đầu óc của mỗi người dân để buộc mọi người phải tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng theo cách nghĩ và cách làm của họ. Chẳng hạn như : ai không đi biểu tình, khiếu kiện thì tùy, nhưng nhà có người chết đừng có gọi dân khiêng, có cháy nhà đừng gọi người dập lửa. Phương thức đấu tranh ấy, chính là sự quay trở về với "lệ làng", mà buộc "phép vua" trước đây đã phải thua. Một khi mà kỷ cương, phép nước do những cán bộ xã, huyện và cả tỉnh đại diện đã không yên được lòng dân, thì tính tự phát của lệ làng, của đám đông có tổ chức hay không có tổ chức, dẫn đến sự manh động, là điều không thể tránh khỏi.
Bước chuyển từ "đối thoại" sang "đối đầu" đã thực sự chia rẽ một bộ phận lớn nhân dân với chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ trật tự là công an. Xu hướng manh động của những người nông dân mất bình tĩnh với sự tham gia của những trẻ em vị thành niên và những người kém kinh nghiệm xã hội đã được thổi bùng lên bởi các phần tử cực đoan quá khích và những thành phần bất hảo trong xã hội, điều ấy cũng không có gì lạ.
Ví dụ như, người ta kể lại rằng, ngày 8 tháng 6 năm 1997, chừng 300 thanh niên tuổi từ 13 đến 17 đã trói Chủ tịch và Bí thư xã Quỳnh Hoa, dong lên huyện dưới trời mưa mà không cho đội mũ. Họ phá cổng Ủy ban huyện làm Chủ tịch huyện phải bỏ chạy. Họ la hét và hạ nhục bằng những câu hỏi khiêu khích : vì sao mà "giàu lên nhanh thế", vì sao mà "chóng béo" đến thế.
Khoảng 10 ngày sau là sự kiện lên đến cao trào bằng việc đốt phá đêm 26 rạng 27/6/97 tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ. Rồi sau Quỳnh Phụ, một loạt các huyện khác đã nổ ra đấu tranh dưới nhiều hình thức kể cả biểu tình, khiếu kiện như ở Ðông Hưng (xã Ðông Cường) lẫn tấn công bằng bạo lực vào các cán bộ xã bị coi là phần tử tham nhũng. Người ta cho rằng tại ba xã Thái Thịnh, Thái Tân và Mĩ Lộc của huyện Thái Thụy là đỉnh cao của những cuộc tấn công bằng bạo lực. Phần đông các cán bộ xã bị tấn công đã phải trốn chạy. Những người còn lại đã phải dùng hình thức tự vệ bằng vũ khí và sự hỗ trợ của họ hàng, người cùng xóm gắn bó với họ.
Sau những bùng nổ đó, huyện, tỉnh (và có thể cả Trung ương) đã có những giải pháp, thêm vào đó, khung cảnh khủng bố và sự phá phách của những phần tử quá khích cũng đã làm cho nhiều người phải suy nghĩ lại về mục tiêu và phương thức của những cuộc đấu tranh đang diễn ra. Sự trấn áp những phần tử quá khích và những lời hối lỗi của họ trên màn ảnh truyền hình địa phương được đưa liên tục có thể cũng đã răn đe những hành vi bạo lực, manh động. Trong nhân dân cũng đã có người nhận ra hành động "luồn gió bẻ măng", có thể thấy rằng đám đông đã bị lợi dụng bởi những kẻ cực đoan, những kẻ muốn đục nước béo cò, trả thù cá nhân, thậm chí những hành vi lưu manh, cướp bóc. Tình hình tạm lắng xuống, song những nguyên nhân đẩy tới sự khủng hoảng và bùng nổ vừa qua vẫn còn nguyên, nếu chưa nói là đây đó, nơi này nơi khác được nung nấu thêm ! Màn kịch bạo lực dường như đã đi quá những giới hạn có thể chấp nhận cả từ phía chính quyền lẫn từ phía nông dân, hậu quả xã hội thật nặng nề.
Ðể tỉnh táo giải quyết hậu quả nặng nề này đòi hỏi một sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, mổ xẻ phân tích để dám cắt bỏ ung nhọt, thuốc thang bổ dưỡng cho cơ thể xã hội lành mạnh với một đường lối đúng, giải pháp đúng.
Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào đây để giải quyết những mâu thuẫn đã tích lũy nhiều năm ở nông thôn mà không phải sử dụng đến bạo lực ? Ðể trả lời câu hỏi này, việc đánh giá lại những sự biến vừa xảy ra một cách khách quan, tỉnh táo và thực sự cầu thị là tiền đồ quan trọng nhất.
Phải chăng là, không thể quy mọi nguyên nhân của các sự biến trên cho những kẻ quá khích, cực đoan hay những tên lưu manh chỉ thèm trả thù, cướp bóc và đập phá. Bởi lẽ nếu đúng là bọn này thì chúng không có uy tín, không có lẽ phải, không có khả năng tập hợp nông dân trong những cuộc biểu tình hợp pháp, nghiêm túc và đầy ý thức chính trị như vừa qua. Nếu đúng như câu chuyện được kể lại thì với một tập hợp trên dưới hai ngàn người, từ hơn 30 xã trong huyện, tập hợp ở một địa điểm và thời điểm bí mật đã được định trước chắc chắn là một hoạt động có tổ chức chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất.
Người ta kể lại rằng họ diễu hành hàng đôi bằng xe đạp lên tỉnh để tránh những trục trặc và ách tắc giao thông do họ gây ra hoặc do hoàn cảnh đưa lại. Cứ khoảng từ 30 đến 50 người lại có một người chữa xe đạp để tránh những trục trặc kỹ thuật. Ðến trụ sở Ủy ban tỉnh, họ ngồi thành hàng trên vỉa hè, tuyệt đối không bẻ cây, vứt rác, làm mất trật tự, trị an nơi họ có mặt. Họ kiên nhẫn chịu đựng sự căng thẳng, mệt mỏi trong 2 ngày 1 đêm chỉ để đưa được lá đơn khiếu nại tới tay ông Chủ tịch tỉnh. Ðã có biết bao giai thoại về cuộc biểu tình này chỉ để tỏ lòng khâm phục trình độ tổ chức của người lãnh đạo và ý thức tổ chức của những người tham gia. Ở những cuộc biểu tình này tuyệt nhiên không có xung đột, đụng độ nào cho dù có sự hiện diện của cảnh sát dã chiến (chỉ có xung đột ở huyện, xã).
Người ta cho rằng ở các cuộc biểu tình này có sự tập hợp đông đảo các tầng lớp nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh, từ người già, trẻ em, phụ nữ, tới những cựu chiến binh, đảng viên, cán bộ về hưu vốn đã từng lăn lộn, chiến đấu và hy sinh xương máu của mình qua hai cuộc kháng chiến. Nếu thế thì phải chăng, tính quần chúng rộng rãi của cuộc đấu tranh này cho phép nhìn nhận rằng đây là một phong trào xã hội, chứ không phải là những mâu thuẫn cục bộ, càng không là sự phản loạn chống lại chế độ.
Sự tham gia của đông đảo các đảng viên, các cựu chiến binh, những người về hưu, một lực lượng xã hội có trình độ nhận thức chính trị và xã hội tương đối cao trong nông thôn càng giải thích rõ tính chất và quy mô của cuộc đấu tranh của nông dân trong sự biến vừa qua và có lẽ chưa tắt hẳn.
Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực mà điển hình là cuộc đấu tranh chống tham nhũng và sự mất công bằng, mất dân chủ trong nông thôn, lực lượng này có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, họ không chỉ là nạn nhân trực tiếp của những tệ nạn cường hào, tham nhũng mà còn là những người có khả năng nhận biết. Chính vì thế, họ dễ trở thành những người khởi xướng và lãnh đạo cuộc đấu tranh mà chúng tôi đã nói ở trên.
Qua tìm hiểu các cán bộ xã, thấy rõ một điều là họ biết rất rõ những ai đứng đằng sau các cuộc tấn công vào bộ máy cán bộ lãnh đạo đương quyền. Nhóm chủ yếu phát động là những cán bộ trước cũng làm cán bộ nhưng nay không còn đương chức nữa. Thuộc về nhóm chủ yếu này ở một số nơi có cán bộ hưu trí, những người tương đối có trình độ cả về học vấn, tổ chức, còn sức lực nhưng thiếu việc làm. Cũng không nên quên rằng, Thái Bình, với đặc điểm đất chật, người đông, có một số lượng rất lớn người đi thoát ly làm cán bộ và nay về hưu. Ðược đảm bảo tương đối về đời sống, và cũng có hiểu biết, có nhiều thời gian những người thuộc nhóm này thường hay đề xuất ý kiến trong đời sống nông thôn.
Cũng chính vì vậy, cách đưa tin của Đài Truyền hình Thái Bình làm cho người ta nghĩ rằng bọn "côn đồ" xúi giục, nay bọn chúng đã bị bắt và ăn năn hối lỗi và nhận tội thì những người nhẹ dạ cả tin và manh động theo đuôi bọn quá khích đã nhận ra sai lầm. Cách đưa tin đó hình như không đạt được mục đích, mà ngược lại, trong khía cạnh nào đó lại như tích tụ thêm sự phẫn nộ.
Sau 10 năm tiến hành công cuộc Ðổi mới, rõ ràng là đời sống vật chất của mọi tầng lớp nông dân đã được nâng lên, nông thôn đã từng bước chuyển mình. Thái Bình lại càng nổi trội lên với bao lá cờ đầu, bao nhiêu vẻ khang trang, nề nếp. Vậy cái gì đã lôi kéo nông dân vào một cuộc đấu tranh dữ dội và rộng khắp như vậy ? Theo chúng tôi có lẽ không chỉ đơn thuần là lý do kinh tế. Những khiếu kiện kinh tế chỉ là điểm xuất phát khi một số cán bộ xã bị nghi ngờ có hành vi tham nhũng lại tự cho mình cái quyền tự phán xét, tự hợp thức hóa những quyết định đáng nghi ngờ của họ. Những người này tự cho họ là đại diện cho Ðảng bởi họ chính là bí thư hay các đảng ủy viên quan trọng của đảng bộ, tự cho là đại diện cho Chính quyền nhân dân, khi họ là chủ tịch hay các phó chủ tịch, trưởng thôn, tự xem là đại diện cho pháp luật khi họ là chủ tịch hay các thành viên của Hội đồng nhân dân xã. Những người này triệt để sử dụng các thiết chế hiện hành đang bị quan liêu hóa để hợp thức hóa những quyết định của họ thay vì trực tiếp tham khảo, lắng nghe ý kiến của nhân dân, dần dần một bộ phận những người có quyền lực này xa lạ và đối lập với dân.
Một khi mà sự việc đã diễn ra đến tình huống như vậy thì ở những nơi này, nội bộ Ðảng bị chia rẽ vì phe cánh và quyền lợi, mất dần sức sống, không còn uy tín. Chính quyền rơi vào nguy cơ mất mối liên hệ với các tổ chức quần chúng. Giữa dân với Ðảng và Chính quyền mất dần kênh liên lạc vốn có. Người ta phải sử dụng đến các hình thức khiếu kiện vượt cấp để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của họ. Khi mọi hình thức đó không đi đến kết quả thì xung đột nổ ra dưới mọi hình thức. Các phần tử cực đoan quá khích có cơ hội để đưa cuộc đấu tranh nhanh chóng đi đến bế tắc bằng các hình thức bạo lực và sự trả thù.
Hãy dừng lại ở sự kiện xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, đi vào diễn biến dẫn đến sự bùng nổ để qua đó, chứng minh cho những phân tích nói trên.
Sự việc bắt đầu bằng những đụng độ căng thẳng xung quanh yêu cầu của Thanh tra Nhân dân xóm 10, thôn Kiến Quan, đòi ông Khương, nguyên Xóm trưởng giao nộp hồ sơ sổ sách để kiểm tra mà chưa được đáp ứng. Ngày 24/6/97, trước sức ép của nhiều người, ông Lương Văn Quang, thành viên Tổ Thanh tra Nhân dân xóm đã đánh kẻng họp dân toàn xóm mà chưa có sự đồng ý của người có trách nhiệm. Ðiều này đã dẫn đến tranh chấp, đôi co trong việc lập biên bản và giữ ông Quang tại trụ sở Ủy ban vào ngày 26/6/97. Việc này do Chủ tịch Nguyễn Mạnh Hàm và Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm chủ trương.
Bị kích động bởi một lời thách đố của Chủ tịch xã khi nóng giận, dân xóm 10, và sau đó kèm theo là hàng nghìn người từ các thôn xóm khác trong và ngoài xã đã tràn đến bao vây trụ sở xã vào cuối ngày hôm đó. Những hành động quá khích vượt quá giới hạn của cuộc đấu lý đã dẫn đến bạo lực. Ðám đông hàng trăm người trong đó có những người bịt mặt với sự reo hò, cổ xúy của hàng nghìn người vây Ủy ban (cỡ chừng vài ba nghìn người, có người cho rằng có tới 6 nghìn người) đã tràn vào trụ sở Ủy ban Nhân dân xã, đập phá bàn ghế, tủ công tác, bàn hội nghị, phòng ốc, chậu hoa, cây cảnh, bát đĩa, v.v. và săn đuổi cán bộ xã đang có mặt tại trụ sở. (Khi thấy sự việc có chiều hướng nguy hiểm, hệ thống đèn chiếu sáng đã phải vụt tắt, tất cả các cán bộ xã đều đã phải trốn chạy tháo thân).
Thế rồi từ 7h tối ngày hôm đó cho tới rạng sáng ngày hôm sau (chừng 3h30') là một cuộc bạo động của đám đông hàng nghìn người rầm rập trên đường lần lượt đi phá, đốt nhà cửa, lấy tài sản của các cán bộ chủ chốt trong xã.
Trình tự của cuộc đập phá : Thoạt đầu là Ủy ban xã, ngay sau đó là nhà chị Ly, liền kề Ủy ban (đây là gia đình thường thổi nấu cơm khách, phục vụ ăn uống cho Ủy ban xã). Người ta nói rằng việc đập phá nhà chị Ly là để cho bõ tức vì không tìm thấy ông Chủ tịch Hàm tại đó. Tại nhà này, đám đông đã đốt xe máy phân khối lớn của một cán bộ công an tỉnh biệt phái theo dõi cơ sở. Từ nhà chị Ly, đám đông ầm ầm đi tới xóm 11 dập phá nhà Chủ tịch Hàm. Sau đó, chuyển xuống xóm 6, phá nhà ông Trung, cán bộ quản lý địa chính xã, sang xóm 8, đập phá tài sản nhà ông Lự, Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Thái Bình. Tại đây, đã diễn ra cuộc đụng độ quyết liệt giữa thân nhân của chủ nhà với người đi đập phá, cả hai phía đều có người bị thương, đám đông đã bắt đầu nổi lửa đốt từ nhà này trở đi. Tiếp đó đám đông vượt đồng sang xóm 9, xóm 10 để đập phá và đốt nhà ông Hoa, Phó Chủ tịch phụ trách nội chính xã, quay trở về gần nhà Chủ tịch Hàm để đốt phá nhà ông Ðăng, Chỉ huy trưởng quân sự xã, sau đó tới các xóm khác đốt phá nhà ông Trừ (nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân khóa trước, nay là Trưởng ban Tài chính xã) rồi tới đốt phá nhà ông Hứa, Phó Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Ðiểm đốt phá cuối cùng là nhà Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm, huyện ủy viên huyện Quỳnh Phụ... Tại đây, đám đông giải tán vào lúc khoảng 3h30' sáng ngày 27/6/1997.
Từ những thông tin mà chúng tôi nắm được qua cuộc khảo sát nhanh được trình bày tóm tắt ở trên chúng tôi nghĩ có thể gợi lên một số nguyên nhân để giải thích các sự biến vừa rồi. Ðương nhiên ở đây cũng chỉ là sự suy nghĩ chủ quan của chúng tôi từ cách tiếp cận xã hội học. Ở những cách tiếp cận khác, có thể có sự nhìn nhận khác. Tuy vậy, chúng tôi cứ mạnh dạn nêu lên như sau :


II. Sức dân bị khai thác quá mức,
bị sử dụng lãng phí và bị tham nhũng quá mức


Là một tỉnh nông nghiệp, mật độ dân số quá cao và có một thời tỉ lệ phát triển dân số quá lớn. Thái Bình cho đến nay vẫn chỉ trông chờ vào việc trồng lúa. 102.360 ha đất nông nghiệp của Thái Bình đã được thâm canh đến mức tối đa và nhìn chung năng suất cũng đã đạt đến mức tối đa : 10-15 tấn/ha/năm ; tức là khoảng từ 2 cho đến 2,5 tạ/sào/vụ. Bình quân đất canh tác mỗi khẩu dao động từ 1 tới 1,5 sào/người. Ước tính năm 1997 trung bình mỗi người dân Thái Bình xuất khẩu không quá 15 đô la, trong đó một phần không nhỏ trông chờ vào xuất khẩu lúa. Ðược mùa nên giá lúa đã rơi mạnh ; giá lúa trung bình tại các chợ là 1.200 đ/kg thóc và sau vụ Ðông xuân 1997 Thái Bình còn hàng chục vạn tấn chưa có thị trường tiêu thụ.
Nhìn từ góc độ hộ gia đình, tình hình lúa ít sáng sủa hơn. Theo nhiều người đánh giá, nếu cần mua 200 đ thuốc lào cũng phải bán lúa và 5 cân mới mua nổi 1 bao Vinataba (Thời báo Kinh tế, 16/7/1997). Những nguồn thu nhập khác ngoài lúa như chăn nuôi là thấp và ít ỏi. Chúng tôi dẫn ra đây trường hợp một nông dân đã từng tham gia biểu tình ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Gia đình anh ta 5 người với 7,5 sào ruộng có thể có thu nhập tối đa là :
7,5 sào x 4 tạ = 30 tạ = 3 tấn = 3.600.000đ
2 tạ lợn x 10.000đ/kg = 2.000.000đ
Các khoản khác : = 2.000.000đ
Tổng cộng : = 7.600.000đ
Trong lúc đó, các khoản chi phí chủ yếu là :
7,5 sào x 1 tạ = 7,5 tạ = 1.000.000đ
2 tạ lợn X 5.000đ/kg = 1.000.000đ Tổng cộng : = 2.000.000đ
Các khoản đóng góp cho chính quyền:
Vụ đông : 71,1 tạ = 850.000đ
Vụ mùa : 5,7 tạ = 680.000đ
Cộng : = 1.530.000đ
Tổng cộng: = 4.100.000đ Thu nhập bình quân 800.000 đ/người
Có lẽ đây là một trường hợp không mấy cá biệt, mà có thể xem như khá phổ biến đối với Thái Bình.
Với nguồn thu tối đa là 1.000.000 đ/người/năm, người nông dân phải chi cho ăn, mặc, học hành của con cái, chữa bệnh, sửa chữa nhà cửa và vô vàn các khoản khác nữa. Trong lúc đó hệ thống nhu cầu lại được mở rộng, theo kênh truyền thông đại chúng về lối sống đô thị và theo mạng lưới giao thông nối liền nông thôn với đô thị. Ví dụ, nước giải khát chè xanh không còn trong khi xuất hiện "bia Ong" (Thái Bình) cũng như các loại nước có ga khác. Người nông dân trên những thửa ruộng với nhiều mảnh cách xa nhau cũng không thể cày sâu hơn, cuốc bẫm hơn vì họ đã nghiệm ra là càng như thế thì thu nhập của họ càng ít đi. Trong khi đó, đường nhựa và thông tin đại chúng truyền tải liên tục về cho họ những sản phẩm mới và những hình ảnh mới mà họ ít có cơ hội để hưởng dụng chúng. Ðặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục đại học và y tế nhà nước, rất khó để người nông dân có thể hưởng được những thành quả của sự phát triển trong hai hệ thống đó.
Trong lúc đó, người nông dân cũng tận mắt thấy sự đồng đều truyền thống mà họ yêu mến không còn nữa. Nhóm cán bộ xã đã giàu lên nhanh chóng và bắt đầu có một lối sống khác: "chiều chiều họ cưỡi xe dim [xe honda Dream], đeo vạt [cà vạt], mặt đỏ như ông tiên sư, ra cánh đồng đứng chỉ trỏ" (lời kể của một lão nông, huyện Quỳnh Phụ). Thế rồi vợ con của những cán bộ kiểu này bắt đầu có những đua đòi, kệch cỡm trong lối sống mà bà con lối xóm cho là "hợm của". Và không thể nào lý giải được nguồn gốc của số của cải đó. Trong các khiếu nại, nhiều người nông dân chỉ yêu cầu các cán bộ lãnh đạo xã dạy cho họ biết cách làm thế nào để cũng có thể giàu lên nhanh chóng như cán bộ.
Thành tựu về tăng trưởng kinh tế ở Thái Bình là rõ ràng : người nông dân từ chỗ đói ăn, nhà tranh vách đất nay đã chuyển sang đủ ăn, nhà kiên cố. Tuy nhiên, do hệ thống nhu cầu được mở ra nên từng người cụ thể không cảm nhận được sự tăng trưởng đó. Có chăng là với người già, khi họ ngồi nhớ lại rằng ngày xưa đời sống khổ cực hơn.
Một thành tựu cơ bản của Thái Bình cho đến tận hôm nay là đẩy nhanh các chương trình xã hội. Trong năm năm qua những công trình "Ðiện, đường, trường, trạm" đã là những thành tựu nổi bật nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển xã hội. Tuy nhiên, nếu phát triển các chương trình đó trong bối cảnh của nền kinh tế không phát triển đạt đến mức tương ứng thì sẽ đem lại một sự thụt lùi cả trên bình diện kinh tế lẫn xã hội. Ðiều này thì nhiều lãnh đạo nào cũng có thể hiểu.
Thế nhưng, dường như lãnh đạo Thái Bình muốn thông qua những chương trình xã hội để phần nào đảm bảo lại sự phân phối lại công bằng hơn cho người dân. Có lẽ chưa có tỉnh nào phát triển hệ thống giao thông nông thôn tốt được như Thái Bình : đường liên xã đều được rải nhựa. Hơn thế, Thái Bình còn phát triển cả bốn công trình điện, đường, trường, trạm cùng một lúc. Quả thực điều này đã tạo cho nông thôn Thái Bình một diện mạo rất tươi sáng. Nhìn từ ngoài vào, ấn tượng thật nổi bật. Song nếu đi sâu phân tích sẽ bật ra nhiều vấn đề.
Ðiểm đầu tiên cần hiểu : từ nguồn vốn nào để thực thi các công trình lớn đó ? Không thể từ đâu khác, kể cả nguồn vốn cho việc xây dựng trụ sở, hội trường, nhà tưởng niệm, v.v. đều chủ yếu lấy từ sự đóng góp của nông dân. Cùng với nó là từ các nguồn có thể xoay xở được như bán đất cho những người có tiền làm nhà. Ðặc biệt là khoản tiền vay của ngân hàng với hy vọng sẽ trả dần về sau này. Ước tính số tiền nợ vay ngân hàng theo những người được hỏi có thể chiếm 10 % tổng số tiền sử dụng để triển khai các chương trình trên. Gánh nặng trả nợ về sau thì rồi cũng đè trên vai người dân chứ còn ở đâu khác. Mà những khoản đóng góp thì rất đa dạng.
Ví dụ : tại xã Tây Phong huyện Tiền Hải, người ta nói với chúng tôi rằng : mỗi con trâu 1 vụ phải đóng 40 kg thóc về tiền giao thông, tức là mỗi chân trâu 10 kg thóc cho 1 vụ ; mỗi đàn vịt từ 30 con trở lên phải đóng thuế trồng cỏ. Còn nhiều khoản đóng góp khác nữa, ví như một cuộc họp phổ biến kiến thức nói về nông nghiệp cũng đòi mỗi gia đình phải đóng góp 7 kg thóc, v.v.
Những xã càng là tiên tiến, lá cờ đầu, thì sự đóng góp của dân càng nặng hơn. Cũng người nông dân tại xã Tây Phong, Tiền Hải, Thái Bình, người đã tham gia cuộc biểu tình bày tỏ ý kiến trên huyện đã nói ở trên, anh ta cho biết : "Theo quy định vụ Ðông xuân 97 gia đình anh phải đóng 7,1 tạ thóc cho hộ 5 người. Nhờ quyết định 279 (**) nên vụ Ðông xuân này hộ chỉ còn phải đóng góp 2,2 tạ thóc mà thôi. Và các gia đình trong xã bắt đầu tổ chức ăn mừng việc "giảm sản". Ở xã là nơi mà sự đóng góp đó đè lên vai người nông dân với tất cả sức nặng của nó, hầu như tất cả các xã của Thái Bình đều nằm trong tình trạng mang công mắc nợ ngân hàng. Xã nợ chừng 1-2 tỷ là chuyện thường. Tại xã Quyết Tiến huyện Kiến Xương, một xã có khoảng hơn 3 000 dân, mức nợ nằm ở khoảng trung bình cũng là chừng 400 triệu. Theo lời bình của một cán bộ xã : "Nếu xã nợ chừng 100 triệu trở lại thì còn có thể xoay xở được chứ quá 100 triệu thì sẽ rất nan giải".
Cần nhớ rằng, nội dung đích thực của các chương trình xã hội không phải nằm ở phần cứng của nó, mà là nội dung bên trong cái khung hào nhoáng đó. Chẳng hạn, với trường học thì phần cơ bản phải là đời sống và giáo viên để cho họ thực sự là giáo viên chứ không phải là người nông dân có nghề phụ là dạy học ! Với trạm xá thì tay nghề của các cán bộ y tế cùng những trang thiết bị tối thiểu cho họ hành nghề mới là cái chức năng đích thực. Nếu thế thì một câu hỏi được đặt ra : Liệu có cần phải xây nhiều trạm xá đến như thế không trong khi đã có một hệ thống giao thông tốt và thuận lợi đến như vậy ? Cũng có nghĩa là cho đến hôm nay, thực chất các chương trình phát triển xã hội cũng mới chỉ hoàn tất bước đầu ở phần dễ thấy nhất và tương đối ít tốn hơn. Ấy thế mà cũng đã kiệt sức. Câu hỏi đặt ra sẽ là, phát triển các chương trình xã hội có kịp mang lại động lực mới cho phát triển kinh tế nông thôn Thái Bình hay không, hay đang là gánh nặng quá sức đối với người dân khi mà bình quân thu nhập của họ chỉ trên dưới xấp xỉ 1 triệu đồng cho 1 người trong 1 năm ? Hậu quả của sự đóng góp quá sức đó là gì, chúng ta đã tìm thấy trong các sự biến vừa rồi. Nói cách khác, theo chúng tôi, đó chính là một trong những nguyên nhân đẩy tới sự biến Thái Bình.


III. Cán bộ và cơ chế


1. Về người cán bộ


Ðiều mà mọi người thường giải thích, do cán bộ xã tham nhũng quá đáng, ức hiếp dân để dân không chịu nổi nên tức nước thì vỡ bờ thôi. Trăm sự là đều do cán bộ xã hư hỏng mà ra. Nói vậy cũng có chỗ đúng song cách nhìn nhận ấy không thỏa đáng, và nói cho cùng, cũng chưa đi vào nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng ở Thái Bình, một điển hình nổi bật nhiều năm của sự nghiệp phát triển nông thôn. Rốt cuộc lại thì những người cán bộ là ai, phải chăng họ chính là những thành viên cấp cuối cùng thực thi mọi đường lối chính sách của Ðảng và Nhà nước ? Mà thật ra, với người nông dân ở xã thì Ðảng và Nhà nước cũng là một, nó là hiện diện cho những người có quyền lực đang trực tiếp tổ chức và chi phối đời sống của họ. Ở một khía cạnh nào đó, người cán bộ xã phải gánh trên vai toàn bộ gánh nặng của hệ thống quản lý về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng... Chính họ là người chuyển tải mọi chủ trương đường lối của Ðảng và Nhà nước đến trực tiếp với người dân, nói đúng hơn, đến 80 % dân số của cả nước. Không có họ khó hình dung được sự hoạt động của hệ thống quản lý. Cho nên, không thể chỉ có sự phê xét về họ, mà quan trọng hơn, là sự thẩm định lại cái cơ chế đang điều hành họ, đúng hơn, cái cơ chế mà họ được đặt vào, và rồi, bản thân họ góp phần làm cho cái cơ chế ấy vận hành và cũng bị sự vận hành của cơ chế ấy chi phối.
Ðương nhiên, họ phải chịu trách nhiệm với những hoạt động của họ, hành vi của họ, phẩm chất của họ. Không ai có thể biện hộ cho hành vi tham nhũng và ức hiếp dân của những cán bộ xã hư hỏng. Họ phải bị xử lý, người khác sẽ được thay thế vào, và guồng máy tiếp tục được vận hành theo cái cơ chế đã từng chi phối những cán bộ vừa bị xử lý (sa thải hoặc kỷ luật, ví dụ thế). Thế rồi sao nữa ?
Một bộ máy quản lý ở cấp xã cũng đủ lệ bộ như đã quy định từ Trung ương, chỉ có điều, tiền phụ cấp công tác hoặc lương mà họ được hưởng không tương xứng với công việc mà họ phải gánh vác. Ví dụ như, với 280.000đ, một chủ tịch xã chỉ có thể chi phí cho việc đi họp ở huyện, ở tỉnh, giao tiếp, khách khứa (xăng xe, thuốc lá, thuốc lào, giải khát dọc đường, sửa xe, v.v.). Nhưng họ cũng phải sống chứ, phải nuôi vợ con, rồi nhà cửa, giỗ chạp, cưới xin, chữa bệnh, học hành cho con cái, v.v. Tiền lấy đâu ra ? Ấy vậy mà, xem ra, không mấy cán bộ có chức, có quyền ở xã lại chịu sống trong cảnh bần hàn nhưng liêm khiết cả. Nói chung thì, ở những xã vừa bùng lên những vụ khiếu kiện, những vụ biểu tình, những sự đập phá, v.v. các cán bộ xã đều có mức sống tương đối cao so với mặt bằng mức sống chung của dân trong xã (trừ những cá biệt).
Trong cuộc phỏng vấn một ông giáo về hưu tại thị trấn Kiến Xương, người đang đi khắp nơi nộp đơn đòi thành lập Hội Chống tham nhũng, thì ông ta chia tham nhũng ra làm ba loại, trong đó loại 2, loại 3 thì chỉ cảnh cáo. Chính ông cũng thừa nhận rằng, các cán bộ xã đã làm việc rất nhiều nhưng phần tặng thưởng cho họ về công lao hoạt động là quá ít ỏi. Cũng có nghĩa là ông mặc nhiên thừa nhận những cái mà những người cán bộ có được cũng một phần là công sức lao động của họ, công sức ấy chưa được Nhà nước bồi hoàn thích đáng, và vì vậy tham nhũng là điều dễ hiểu và khá phổ biến. "Nếu cách chức cả thì lấy ai làm việc", ông ta kết luận !
Cũng có thể thấy rằng, công quỹ được hình thành nên, để trong đó có thu nhập của cán bộ xã, có thể có được từ 3 nguồn (ở những xã không có dịch vụ phát triển) :
- Tiền phần trăm do các bên nhận thầu "lại quả" khi thực thi các công trình phúc lợi công cộng. Khoản tiền này rất lớn và khó xác định. - Tiền bán đất cho nông dân xây nhà. - Những khoản thu phí trong các hoạt động sản xuất của nông dân.
Những khoản tiền này được chi để trang trải mọi hoạt động của một bộ máy hành chính rất cồng kềnh, song không được trả đủ lương để tồn tại. Ðấy là chưa nói để chứng minh sự tồn tại của mình là hợp lý, bộ máy này luôn luôn xáo động bằng sự thay đổi nhân sự, bằng sự thăm viếng thường xuyên để chứng tỏ tính chất tập trung tuyệt đối của họ. Phần còn lại sau khi chi phí cho sự hoạt động của bộ máy cồng kềnh đó sẽ thuộc về những người quản lý cấp cơ sở.
Như vậy có nghĩa là khoản thu nhập thêm của cán bộ xã có tính hai mặt. Một mặt, nó là sự trả công cho lao động cường độ rất cao của họ. Mặt khác, nó là sự tước đoạt của cộng đồng. Và do tính chất tuyệt đối của quyền lực hiện hữu, hoàn toàn không có khả năng kiểm soát được về sự tước đoạt này, gắn với sự bất hợp lý của nền hành chính. Sự lạm dụng công quỹ được hình thành nên do những đóng góp nói trên là điều tất yếu, không thể khác được. Và, sự lạm dụng đó rất lớn, chẳng hạn như, người ta nói và chắc là không ngoa, sau hai năm công tác, một trưởng thôn có thể kiếm được 17 tấn thóc. Nói cách khác, cùng với việc sử dụng công quỹ để nuôi một bộ máy quản lý quá cồng kềnh ở cấp xã, để tạo ra sự khang trang cho cả cộng đồng, người cán bộ xã cũng tìm cách làm giàu cho gia đình họ.
Vấn đề đặt ra không chỉ là phẩm chất của người cán bộ xã mà chủ yếu là cơ chế nào đã cho phép họ cái quyền được tạo ra công quỹ đó và được phép sử dụng công quỹ đó. Sự phẫn nộ của nông dân không phải chỉ là những khoản họ phải đóng góp, và còn là, và chủ yếu là việc chi dùng sự đóng góp đó, trong đó có sự tham nhũng như đã phân tích ở phần II.

2. Sự đối đầu giữa cán bộ quản lý và dân


Sự đối đầu giữa cán bộ cấp cơ sở và nông dân là một thực tế rõ nét. Mà những sự biến ở Thái Bình vừa qua đã được phơi bày, cần phải được mạnh dạn chỉ ra. Cần chú ý đến một câu ngạn ngữ phương Tây : "Quyền lực có xu hướng tham nhũng, và quyền lực là tuyệt đối thì tham nhũng là tuyệt đối". Ở cơ sở cộng đồng xã hội nông thôn hiện nay, sự tập trung quyền lực tuyệt đối, trên thực tế là ở trong tay một số người, mặc dù trên danh nghĩa thì là tập thể lãnh đạo của tổ chức Ðảng và Chính quyền.
Trong cuộc phỏng vấn tại nhiều xã trong đợt khảo sát vừa qua của chúng tôi, nhiều bà con nông dân đã thể hiện rõ sự phẫn nộ và quyết liệt với một số cán bộ xã và ngược lại các cán bộ xã cũng có một thái độ như thế đối với những người nông dân biểu tình. Sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nhóm người này là quá rõ, họ rành nhau quá, biết kỹ về nhau quá. Sau những năm dài cùng tồn tại dựa vào nhau, có lẽ chỉ có họ mới hiểu chính xác thế nào là mối quan hệ giữa người quản lý (nhà nước) và người bị quản lý (nhân dân). Và tuyệt đối họ không có ảo tưởng về nhau. Những ảo tưởng về đối tượng quản lý, nếu có, chỉ bắt đầu xuất hiện tại cấp huyện và những cấp cao hơn chứ không thể nào có được tại cấp xã. Cán bộ cấp xã là những người có tư duy rất cụ thể (và có lẽ đó là nơi đào tạo tốt nhất về quản ý nhà nước hiện nay hơn bất cứ học viện nào).
Bi kịch nông thôn là ở chỗ cả hai nhóm người đang đối diện với nhau đều cùng hướng vào những mục tiêu mà xã hội theo đuổi và cơ chế mà xã hội vận hành để theo đuổi các mục tiêu đó. Chính họ cùng chia sẻ những mục tiêu đó mà không ý thức được về cái giá phải trả để đạt được tới đích. Sự căng thẳng vẫn tồn tại từ rất lâu, nhưng một thời gian có phần mờ đi vì chiến tranh, về sự hy vọng về một xã hội tốt đẹp, trong đó mọi người đều bình đẳng như nhau, sướng khổ như nhau. Khi bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới sau hòa bình, những hậu quả của chiến tranh càng được làm trầm trọng thêm trong sự vận hành cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp đẩy tới sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài, đời sống nông thôn lại càng khó khăn gấp bội. Những bước khởi sắc với Nghị quyết 10 và công cuộc Ðổi mới làm cho đời sống nông thôn có chuyển biến mạnh. Tuy nhiên, sau thời gian khởi động, những động lực được tạo ra không còn giữ được sức đẩy như trước nữa, động lực mới thì chưa tạo ra được. Cơ chế vận hành của hệ thống quản lý và bộ máy hành chính càng ngày càng bộc lộ sự bất cập của chúng. Sự bất cập càng kéo dài thì đụng độ giữa người quản lý và đối tượng họ quản lý càng tăng.
Những dồn nén không được giải tỏa (những khiếu kiện hợp lý và trong khuôn khổ hiền hòa, chỉ nhận được những thái độ lẩn tránh quanh co hoặc im lặng kéo dài của các cấp từ xã lên đến huyện, đến tỉnh thậm chí đôi lúc cả trung ương) đến một lúc không kềm chế được đã bục ra. Và khi nó đã bục ra thì có một thực tế phũ phàng là: bộ máy quản lý cấp xã nhiều nơi bị vô hiệu hóa hoặc tan rã. Ðiều mỉa mai nhất, chúng thể hiện rõ sự bục vỡ đó ở ngay những nơi đã được đánh giá là chính quyền vững mạnh, đảng bộ bốn tốt ví như ở xã An Ninh, Quỳnh Phụ, xã Thái Thịnh, Thái Thường của Thái Thụy và xã Tây Phong của Tiền Hải.
Ở những nơi này, sự đối đầu giữa người dân và bộ máy quản lý đã đến cao độ. Và sự đối đầu này hoàn toàn không có cái gì để làm mềm đi cả. Mặc dầu ở những nơi này người ta vẫn học thuộc lòng khẩu hiệu : "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Thế là diễn ra tình huống nhà nước cấp xã quản lý theo những mục tiêu mà nhà nước cấp trên đề ra. Nhân dân thể hiện sự làm chủ của mình bằng cách nổi lên phản kháng. Tuy nhiên, trong cuộc xung đột đó, theo nhận xét của nhiều người, hoàn toàn không thấy bóng dáng của đảng viên nào đứng ra can ngăn những cơn phẫn nộ của quần chúng, bảo vệ những thành quả đã đạt được cũng như bảo vệ nhân tính của người. Trong các sự biến, nhìn rõ sự đối đầu giữa nhà nước, những người quản lý, và nông dân, những người bị quản lý. Tuy vậy, không thấy có ai ca thán gì về Ðảng, tất cả mọi người vẫn nói rằng : đường lối của Ðảng là đúng đắn ! Gần như mọi người đều nhận định rằng : dân chỉ chống những cán bộ tham nhũng, hư hỏng, không chống lại chế độ.
Ðây là một vấn đề của chính trị học, có lẽ chúng ta cần có sự nghiên cứu thỏa đáng để rút ra bài học về mặt thể chế và về vai trò của Ðảng cầm quyền được hiện diện bằng xương bằng thịt ở tổ chức Ðảng cơ sở và ở người Ðảng viên sống trong lòng quần chúng. Không thể không thấy rằng, sự hiện diện bằng xương, bằng thịt của Ðảng cầm quyền là Nhà nước, là chính quyền ở cơ sở cũng như ở các cấp. Ở một khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa cán bộ cơ sở với dân, cần phân tích đó là sự mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một số cán bộ xã còn phản ánh ở một chiều cạnh khác của sự bất bình đẳng xã hội mà chính họ là đại diện.
Ðó là sự cố tình phô bày một lối sống trái ngược hẳn với đạo lý của đời sống cộng đồng vốn rất đặc trưng cho nông thôn Thái Bình. Người dân Thái Bình chỉ chuyên nghề nông, ít va chạm với thương trường, vì xa các trục giao thông quốc gia và quốc tế nên rất dễ phản ứng với những gì xa lạ, nhất là những thay đổi từ trong đời sống cộng đồng của chính họ. Họ nhìn những người cán bộ xã đang giàu lên nhanh không phải bằng mồ hôi nước mắt của chính họ bằng con mắt nghi ngờ bao nhiêu, thì càng tỏ ra căm uất bấy nhiêu khi chứng kiến sự xa hoa đua đòi và kênh kiệu của những người này.
Người dân thể hiện sự căm tức ấy qua cách mô tả những ngôi nhà cao to có trang bị đắt tiền kiểu thành phố, những chiếc xe máy đời mới nhất, đến cách ăn diện của các bà vợ các cán bộ xã đi liền với những câu nói hợm hĩnh, rồi đồ trang sức ở những đứa con cán bộ, v.v. (Một ví dụ : vợ của một cán bộ xã đứng giữa chợ gọi điện thoại di động về cho chồng con xem muốn ăn gì đổi món để mua khiến cho bà con nhìn họ với đôi mắt phẫn nộ và dè bỉu). Rõ ràng là cùng với sự phẫn nộ trước những bất công và tham nhũng về kinh tế trước sự lộng quyền mất dân chủ về chính trị và xã hội, mô hình văn hóa của làng quê cổ truyền đụng độ gay gắt với những khác lạ của lối sống của những người mới phất lên do khai thác được cơ may, quyền lực mà họ đang có. Chiều cạnh của văn hóa này của các sự biến cần phải nhìn cho ra để giải thích thêm về nguyên nhân cho những màn kịch đốt nhà và đập phá của cải đầy bạo lực mà người không theo dõi sự kiện này từ đầu khó cảm nhận được để nhìn nhận và phân tích sự kiện bạo động vừa xảy ra.
Quả thật, cán bộ xã, người đại diện cho hệ thống quản lý nhà nước ở cấp xã cùng với cơ chế quản lý đang vận hành đã bộc lộ những yếu kém và bất cập để dẫn đến những vụ đụng độ gay gắt, chuyển thành những bùng nổ xã hội khiến chúng ta buộc phải nhìn nhận trở lại một cách nghiêm khắc về vấn đề quản lý nhà nước. Cũng cần phải lưu ý rằng những sự kiện Thái Bình lại nổ ra vào lúc chúng ta vừa có nghị quyết Trung ương 3 về nhà nước và cán bộ !

3. Những giải pháp bất cập từ nhiều phía


Nếu diễn biến của tình hình đã vượt quá tầm kiểm soát của những người tổ chức và tham gia vào cuộc đấu tranh, thì đối với chính quyền các cấp trên, đây cũng là một sự kiện hết sức bất ngờ. Cách nhận định địch - ta trong tư duy chính trị trước đây đã có ảnh hưởng không nhỏ tới các giải pháp tình thế. Nghi vấn về sự xúi giục hay âm mưu phá hoại của địch đã loại trừ khả năng xử lý kịp thời những vụ tham nhũng và vi phạm dân chủ trong nông thôn của một số cán bộ xã và có thể dập tắt ngay từ đầu cái mầm của sự rối loạn không đáng có này. Nó cũng làm chậm lại việc củng cố Ðảng và các tổ chức quần chúng trong nông thôn. "Không cắt bỏ ngay cái bọc ung thư, để cho nó di căn rồi mới lo cứu chữa thì quá chậm", đó là một nhận xét chí lý của một cán bộ có trọng trách ở cấp tỉnh nay đã về hưu, đã nói với chúng tôi !
Các quyết định của tỉnh cho dù là đúng, song vì không sát với thời điểm của nó nên có khi còn gây căng thẳng thêm cho tình hình. Chỉ thị "279" yêu cầu chính quyền địa phương chỉ được thu 7 khoản như quy định của tỉnh, được công bố vào cuối tháng 6.97 đã làm bế tắc thêm cho các giải pháp nếu đâu đó cán bộ cố tìm cách tháo gỡ sự đụng độ. Các công trình đã được ký kết và khởi công. Các khoản tiền đã được vay để tạm ứng trước, nay không còn khả năng thanh toán vì đã mất các nguồn thu. Tỉnh đã phải ban bố tiếp một quyết định khác yêu cầu đình chỉ mọi khoản thu và hứa cung cấp kinh phí để giải quyết những bế tắc hiện tại. Những yêu sách của quần chúng là bức xúc và phần lớn những chính quyền cấp xã không sao thỏa mãn, vì nếu thỏa mãn chúng thì phải phủ định chính mình: quyền lực, lợi ích, uy thế. Tình hình dẫn tới chỗ bế tắc. Hệ thống quyền lực ở xã lung lay và không còn chỗ dựa trong dân. Vai trò lãnh đạo bị mờ nhạt, vô hiệu hóa.
Tình trạng thiếu lãnh đạo trong nông thôn lập tức được biến thành cơ hội cho các lực lượng xã hội khác xuất hiện chi phối đời sống xã hội nông thôn. Cái cơ cấu làng họ lâu nay tưởng như chìm sâu trong ký ức giờ đây lại sống lại và trở thành chỗ dựa mạnh mẽ cho đời sống thôn xã. Hình ảnh những cán bộ xã Mỹ Lộc (Thái Thụy) phải co cụm trên nóc nhà mình với sự bảo vệ của những người trong gia tộc và thôn xóm phải chăng là điều cảnh báo cho sự bất lực của bộ máy quản lý mà lâu nay chúng ta cứ ngỡ như là vững chãi và sự phục hồi sức mạnh hệ thống thân tộc, làng họ cổ truyền. Sự khôi phục những sinh hoạt gia tộc và làng xã truyền thống trong những năm gần đây có mối liên hệ gì không với những sự biến này ?
Năm 1993, các đảng viên thuộc hai chi bộ ở xã Thụy Hải (Thái Thụy) đã tổ chức dân hai thôn cầm vũ khí đánh nhau vì tranh chấp đất. Người ta cũng rất tích cực trong việc đòi tách hợp tác xã và đòi chia lại ruộng đất giữa các thôn. Những câu chuyện về "chi bộ họ ta", về sự kế nghiệp các bí thư và chủ tịch đã nghỉ quản lý bằng con, cháu của họ vốn không chỉ xảy ra gần đây mà nó đã tiềm tàng từ lâu trong cộng đồng làng xã khi đi vào hợp tác hóa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc khôi phục các quan hệ và sinh hoạt văn hóa truyền thống ấy chính là cái giá đỡ có hiệu quả cho quá trình chính trị hóa đời sống nông thôn hiện nay. Nó có thể có ích cho công cuộc đổi mới hiện nay, nếu nó được hướng theo những mục tiêu chung của đất nước và thời đại. Trong tình thế ngược lại nó sẽ là lực cản to lớn cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân và sự đi lên của đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cần lưu ý rằng : "Làng là tế bào của xã hội Việt Nam. Xã hội Việt Nam là sản phẩm của tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người dân Việt trồng trọt. Hiểu được làng Việt là có trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên hiểu xã hội Việt nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung trong sự năng động lịch sử của nó, trong ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các biểu hiện văn hóa của nó, cả trong những phản ứng của nó trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó" (***).
Chúng ta đang chứng kiến "những phản ứng của làng xã" trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó.
Mô hình văn hóa "làng họ" ăn sâu vào tâm thức và thế ứng xử của người nông dân, đặc biệt là nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Trong các thiết chế của làng xã cổ truyền, làng - họ là mối liên hệ đặc trưng. Hệ thống thân tộc, các phe giáp, mối quan hệ người cùng làng đã phần nào tạo ra đời sống ổn định, trung hòa bởi những đối kháng trong xã hội. Cái cơ cấu làng - họ với những thiết chế cổ truyền ấy tưởng đã bị xóa bỏ để thay vào đó thiết chế quyền lực mới : Đảng và Chính quyền ở xã. Trong thực tế, ảnh hưởng của thiết chế bền vững xưa kia không tan biến mà chỉ chìm sâu xuống mà thôi. Một khi uy lực và tín nhiệm của bộ máy quyền lực hiện thời bị lung lay thì sức mạnh của thiết chế cũ lại trỗi dậy. Không thấy điều này, sẽ không tìm ra được những giải pháp mang tính bền vững trong việc xây dựng nông thôn mới, lại là nông thôn đang hướng tới sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Thổi bùng lên ngọn lửa từ lâu âm ỉ là thiếu sót của một bộ phận khá lớn những cán bộ cấp cơ sở và những xử lý không đúng của các cấp trên của họ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc xử lý và kỷ luật một số cán bộ có sai lầm khuyết điểm mà thôi thì chưa đủ. Ðiều ấy là tuyệt đối cần thiết để yên lòng dân, song chưa giải quyết được tận gốc những nguyên nhân tích lũy, sự bùng nổ lại tiếp tục có thể diễn ra. Vì, tiếp theo sau sự sa thải hoặc kỷ luật những cán bộ có sai lầm, những người mới được bổ nhiệm sẽ lại tiếp tục hoạt động trong cái cơ chế vốn là nguyên nhân của sự tham nhũng, lộng quyền, thiếu dân chủ, không đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực thi chúc năng nhà nước tại cơ sở thì con đường dẫn đến sai lầm của lớp cán bộ mới này là không tránh khỏi.


IV. Dân chủ và dân trí, sự vi phạm
quyền dân chủ tại nông thôn


Nếu khởi đầu từ cấp cơ sở đi lên, thì thật sẽ hết sức ngạc nhiên tại sao người nông dân lại có thể chịu đựng lâu đến như thế sự mất dân chủ. Trước hết là vấn đề ruộng đất. Nếu việc trả lại ruộng đất cho người nông dân tự quản là nền tảng lớn nhất và sơ khởi cho bất cứ loại hình dân chủ nào thì hiện thực ở Thái Bình là, người nông dân thường không biết được thật chính xác số đất họ có và với số đất đó họ phải nộp những khoản gì, bao nhiêu và trên văn bản nào. Tất cả đã được tính sẵn trong một quyển sổ bởi ai đó và hộ gia đình ở nhiều nơi không được giữ quyển sổ đó, mà là do trưởng xóm giữ.
Chẳng thế mà sau những sự biến, ở nhiều nơi cán bộ xã (có thể dưới sự chỉ đạo của cấp trên) đã lẳng lặng đến tuyên bố hoặc gạch bỏ những khoản mục mà dân phải đóng góp và đã được ghi vào sổ. Bà con kháo nhau, nếu cứ đà này thì vài năm là chúng ta có thể giàu ! Bằng những chuyện thật mà cứ tưởng như đùa này, quyền làm chủ đất đai, ước mơ nghìn đời của người nông dân trên thực tế đã bị vi phạm nghiêm trọng và khiến cho mọi sự bàn cãi về thành tích dân chủ của một nông thôn mới quả là một điều xa xỉ. "Nhà nước bảo thuế ruộng loại A nộp 19 kg/sào, xã thu hơn 30 kg/sào, dân cứ phải đóng. Một gia đình có 3 mẹ con, một đứa con đang đi học lớp 7, một đứa học lớp 4. Bà mẹ không may ngã gãy chân. Thế là tiền thuốc men ngốn hết số thóc trong nhà, chưa thể đóng thuế được, chỉ còn 20kg thóc trong nhà, xã cũng vào vét sạch thì còn dân với chủ gì nữa". Ðấy là lời của một cán bộ lão thành ở Thái Bình nói với chúng tôi.
Tiếp đó, những dấu hiệu thông thường của nền dân chủ, dù chỉ là hình thức, càng khó có thể nói là được tôn trọng. Một việc đơn giản nhất là bầu trưởng xóm, một chức vụ được quy định bởi nhà nước và quy trình bầu cũng được quy định bởi nhà nước, một nhân vật sống sát nhân dân nhất, thì ngay việc bầu cử này người dân cũng không thật có quyền. Hay đúng hơn là, người dân có quyền bầu ra một ông trưởng xóm làm đúng những gì cấp trên quy định. Nếu không ông trưởng xóm đó sẽ được bãi miễn, để thay bằng một ông trưởng xóm khác dễ bảo hơn (xã Tây Phong, Tiền Hải).
Do vậy, khó có thể nói nền dân chủ mà chúng ta triển khai có gì khá hơn nền dân chủ làng xã vốn đã tồn tại nghìn đời ở nông thôn Việt Nam mà ngay cả chính quyền đô hộ thực dân Pháp trước năm 1945 cũng ngần ngại không dám xóa bỏ. Ở một chiều cạnh khác của việc thực thi dân chủ là ở tinh thần luật pháp. Ở đây cũng lại thể hiện một sự bất cập. Một số cán bộ tin chắc rằng quyết nghị của Hội đồng nhân dân xã có thể là cơ sở pháp lý tuyệt đối cho mọi hành vi của họ. Vì thế, chỉ cần thao túng Hội đồng nhân dân là họ có ngay được những văn bản pháp lý cho những quyết định mất dân chủ của họ. Còn ở phía một bộ phận nhân dân thì dường như chế độ dân chủ bằng pháp luật chỉ có tính hình thức. Họ chỉ tin vào một chế độ dân chủ trực tiếp, nơi mà họ có thể trực tiếp phát biểu ý kiến và nguyện vọng của họ. Họ đã làm nên một sự kiện gần như cuộc "đảo chính" khi họ giằng micro từ tay một cán bộ (xã Thái Thịnh, tháng 6/97) để đọc bản đề nghị phế truất vị chủ tịch xã do chính họ bầu ra trước đây và đề cử một người khác. Những cách quan niệm khác nhau và bất cập về dân chủ trong xã hội không thể không dẫn tới những rối loạn chức năng của tổ chức bộ máy nhà nước ở cấp xã, cái cần làm thì không làm, cái không được phép thì cứ làm bừa.
Một đặc trưng khác của nền dân chủ là sự kiểm soát hữu hiệu hoạt động của nền hành pháp. Và không thể nói người nông dân, hay thanh tra nhân dân được bầu ra, lại có thể làm được điều nàỵ Một kiểm soát hữu hiệu phải có thông tin, ấy vậy mà, chưa có cơ chế nào quy định để người dân nắm được thông tin cần thiết. Với cơ chế "Ðảng lãnh đạo" được hiểu một cách thô thiển theo kiểu đảng viên phải nắm tất cả mọi chức vụ, sự kiểm tra cũng bị những người nhân danh Ðảng thao túng. Như vậy thì sự dân chủ đã bị vi phạm trắng trợn.
Sự kiện Thái Bình diễn ra với đủ mọi lời đồn đại lan tràn, nhưng truyền thông của tỉnh trong một thời gian dài đã không hề cung cấp bất kỳ một thông tin nào về việc "vậy thì cái gì đang lan truyền trong toàn thể các xã ở Thái Bình". Còn khi được phép đưa tin thì lại đưa theo một sự lựa chọn phiến diện, không phản ảnh được tình hình, không đáp ứng được đòi hỏi của dân. Ðể nói về cái quyền sơ đẳng của nhân dân nhiều nơi bị xâm phạm thô bạo, xin dẫn ra đây một ví dụ : Một trường hợp đẻ con thứ ba (xã Tây Phong, Tiền Hải) bị phạt theo quy định. Nhằm nhanh chóng thu tiền phạt, xã đã tự mình đặt tên cho con của gia đình bị phạt và dẫn đến trường hợp rất hy hữu trong lịch sử : đứa bé có hai tên, tên chính do chính quyền đặt và tên khác do bố mẹ đặt cho !
Quyền dân chủ bị xâm phạm, điều ấy quá rõ, điều ấy cũng lại gắn với vấn đề dân trí. Có một sự thật phải chấp nhận, khi trình độ dân trí chưa được nâng cao thì việc thực thi dân chủ không tránh khỏi những lệch lạc. Ðiều dễ trông thấy nhất là chủ nghĩa bình quân trong dân chủ làng xã, trong quan niệm dân chủ đó, phần lớn mọi người vẫn chỉ chia sẻ một giá trị là sự chia đều cho tất mọi người những quyền lợi về vật chất và về tinh thần mà xã hội đạt được và người ta có quyền duy trì và thực hiện các quyền đó. Người ta không chấp nhận rằng có những người khác lại có khấm khá hơn họ. Và sự phát triển dân trí trong những năm vừa qua chỉ đủ đưa những người lãnh đạo phong trào nông dân, trong trường hợp tốt nhất là tư tưởng thành lập một Hội Chống tham nhũng. "Bọn tham nhũng như lũ chuột. Hội Chống tham nhũng là con mèo. Chỉ cần có hơi mèo là chuột sợ". Khởi đầu với lý lẽ như thế, rõ ràng là dễ đi vào lòng người, sẽ được những kẻ quá khích cổ vũ cho cái triết lý trong cơ chế hiện nay thì cứ Chí Phèo là được tất. Và đám đông bùng lên. Những người cầm đầu với ý định rất tốt đẹp ban đầu không còn làm chủ được tình hình nữa.
Còn bên kia, các cán bộ chính quyền, nhất là cấp xã, cũng có cùng mặc cảm dân chủ ấy, ngần ngại hành động. Và họ rất hận với chỉ thị 279 giảm đóng góp của dân xuống. Vì theo họ, đấy là chỉ báo cho cái sự dân chủ Chí Phèo phát triển.


V. Những nhu cầu khác chưa được đáp ứng


Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, đảm bảo dân chủ nâng cao dân trí, xã hội hiện đại cần đến một loạt các thiết chế xã hội để đảm bảo sự hiểu biết lẫn nhau tốt hơn giữa con người trên căn bản tôn trọng cá nhân. Xã hội hiện đại còn là một sự hài hòa giữa lao động và sử dụng hợp lý thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là khi có sự tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta đứng trước hiện tượng là Thái Bình là một trong những tỉnh khá nhất của nông thôn Bắc Bộ, kinh tế có lên tuy chưa nhiều so với tiêu chuẩn hiện đại nhưng là rất cao so với những ngày trước năm 1945. Học vấn cũng vậy. Ấy thế mà việc tạo ra những điều kiện để sử dụng thời gian nhàn rỗi là gần như con số không. Thanh niên sau khi được học hành đã không thể tìm được một cách giải trí tích cực nào ngoài việc giải trí thụ động là xem tivi. Trong khi đó tuổi kết hôn lại được nâng cao đến thừa sinh lực. Thanh niên cũng không có chỗ để thực thi trình độ hiểu biết của mình do phải tuân thủ truyền thống "trọng xỉ", dù cho đã có văn hóa, nhưng xem ra vẫn còn "trẻ quá" để thay thế các bậc cha chú do vậy họ cũng chưa có chỗ để sử dụng. Trong các đám đập phá ở nông thôn Thái Bình người ta quan sát thấy chủ yếu là thanh niên, với những mô hình hiệp khách du nhập một cách bập bõm qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng là điều để chúng ta suy nghĩ kỹ hơn về nguyên nhân.
Ðối với các nhóm tuổi khác, đặc biệt là phụ nữ, tình hình còn bi kịch hơn. Ruộng đất còn ít, nghề phụ không có, người ta không biết sử dụng lao động của mình làm gì. Những truyền thống và tập tục văn hóa ngày xưa thì phần lớn đã bị tiêu vùi trong những năm tháng trước đây. Việc phá đình chùa cuối cùng ở Thái Bình là vào những năm đầu thập kỷ 80. Một sự trống trải trên bình diện văn hóa tinh thần, cái dù sao đi chăng nữa cũng đào tạo cho con người ta một nhân cách, dù là nhân cách cam chịu, sự trống trải đó sẽ dẫn tới những hệ lụy mà không phải lúc nào người lãnh đạo cũng cảm nhận được. Và không có cái gì dễ thay thế nó. Văn hóa mới, hướng nhiều về vật chất, lại cao hơn mức mà kinh tế nông thôn Thái Bình cho phép.
Những tổ chức, thể chế xã hội được xây dựng nên trong những năm tháng đã qua. Ðoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Phụ lão, v.v. dần dần rơi vào trạng thái phần nào hữu danh vô thực. Những tổ chức này có một thời đã đóng một vai trò rất tích cực nhưng giờ đây hình như không còn sức hấp dẫn người dân nữa. Tất cả những thiết chế xã hội này đều vẫn đang hoạt động, nhưng có vẻ như nó đã không đáp ứng được mục tiêu : tạo một sự đồng cảm xã hội.
Trong khi đó, những loại hình tổ chức khác bắt đầu được lập ra : các hội từ thiện, các tổ chức phi chính phủ, v.v. lại cũng chưa phát huy được tác dụng bao nhiêu. Người ta dường như cũng cảm nhận rằng những loại hình thức tổ chức đó cũng chẳng đáp ứng được gì cho nhu cầu tinh thần và giao tiếp xã hội của người dân vì vẫn là những con người cũ làm những việc đó.
Do vậy, một mặt người dân tiêu chỗ tiền phụ trội ít ỏi có được của họ vào ma chay, cưới xin và những cái hủ tục khác nữa như uống rượu hoặc đánh số đề. Và mặt khác, tâm linh họ lại hướng mạnh về tôn giáo tín ngưỡng. Có thể thấy ở nông thôn tất cả các bà, các chị từ 30 tuổi trở lên đều chăm chỉ tham gia lễ chùa hoặc đi nhà thờ đều đặn.
Nên chỉ riêng quan sát ngôi chùa ở nông thôn thì có thể thấy thiết chế này trong bối cảnh hiện nay là trở nên rất hữu ích cho người dân nông thôn : thỏa mãn phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần, rèn luyện tình người cho con người. Hơn thế, nó còn là nơi cưu mang cho những cuộc đời bất trắc, cái mà ở thời nào cũng có. Ðặc biệt là với một nông thôn mà không có gia đình nào không có người phải nằm xuống trong cuộc chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các sư giữ chùa làng là những người phụ nữ có số phận dở dang, trong số đó có nhiều người trở về sau những năm tháng chiến đấu trong trong hàng ngũ thanh niên xung phong, chống Mỹ cứu nước.
Và nhà thờ Thiên chúa giáo cũng đang hoạt động tích cực như một lực lượng cứu rỗi linh hồn. Họ có đủ đức tin và nguồn tài chính để đi vào trong quần chúng. Ðiều này thật đáng phải suy nghĩ.


Kết luận


Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Khi cái nhọt đã bục vỡ, nếu biết cách xử lý, nỗi đau sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều và phần cơ thể nhiễm khuẩn sẽ lành mạnh trở lại. Ðiều ấy là dễ hiểu song không dễ chấp nhận, không dễ có một thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật với một sự dũng cảm mổ xẻ, phân tích để tìm ra đúng nguyên nhân. Nếu không tìm ra đúng nguyên nhân của sự kiện, chỉ dừng lại trên bề mặt của hiện tượng, đối phó bị động và tạm thời bằng những giải pháp chắp vá, thì nhất thời có thể tạm yên được sự bùng nổ, nhưng cái đẩy tới sự bùng nổ thì vẫn còn nguyên, thậm chí còn nung nấu them, đây là một logic tất yếu mà mọi sự bưng bít, che đậy hay xuyên tạc sẽ gánh chịu những hệ lụy khó lường.
Hơn nữa, sự kiện Thái Bình không là ngẫu nhiên và duy nhất. Cái đáng ngạc nhiên – nếu có ai đó có sự ngạc nhiên – thì tại sao lại xảy ra đúng ở Thái Bình, lá cờ đầu của sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, cái xót xa là ở những điểm nóng nơi dân đòi hạ bệ hoặc bắt dẫn lên huyện cán bộ Ðảng và Chính quyền xã mà không gặp sự phản kháng nào của Ðảng viên, mà những nơi ấy lại vừa được tuyên dương là đảng bộ vững mạnh! Sự kiện Thái Bình có những nguyên cớ ngẫu nhiên, đặc thù, song vấn đề nông dân trỗi dậy đòi quyền lợi về kinh tế, về chính trị, về xã hội thì không còn là cá biệt và ngẫu nhiên chỉ xảy ra ở Thái Bình. Do đó, giải quyết đúng sự kiện Thái Bình cũng chính là giải quyết đúng vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân hiện nay. Trên cơ sở khảo sát nhanh sự kiện Thái Bình, từ sự tiếp cận xã hội học, chúng tôi hình dung các kịch bản có thể diễn ra như sau:

1. Kịch bản thứ nhất :


Bị động đối phó bằng cách, một mặt giảm bớt các khoản phải đóng góp của dân, mặt khác trấn áp những đối tượng được nhận định là người cầm đầu, người kích động dân, người có hành vi hung đồ phạm pháp. Tiếp đó dần dần xem xét và kỷ luật hoặc loại bỏ một số cán bộ tham nhũng mất lòng dân, xem xét lại một số văn bản, quyết định từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh để có sửa đổi hợp lý, hợp lòng dân, kiện toàn lại bộ máy Đảng và Chính quyền ở cấp xã, loại bỏ những người tham nhũng quá đáng, quá mất phẩm chất, không có khả năng quản lý, bổ sung những cán bộ tốt, có phẩm chất, có năng lực, được dân tin.
Ðộng viên sức dân, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp, cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nông dân.

2. Kịch bản thứ hai :


Trung ương và tỉnh cử người về tại những điểm nóng, họp toàn thể nhân dân, công khai tiếp nhận kiến nghị, trực tiếp trả lời cho dân một số vấn đề có thể trả lời được ngay, ghi nhận những điểm cần tiếp tục xem xét để trả lời dân sau đó. Ở những nơi khác, cũng có thể làm tương tự với đại diện của tỉnh, huyện và một số ngành chức năng. Cách chức những cán bộ Ðảng và Chính quyền đã có bằng chứng là tham nhũng nặng, mất hết uy tín trong dân ; công khai tự phê bình những sai lầm về chủ trương, giải pháp không đúng với đường lối chính sách của Ðảng và nhà nước, làm thiệt hại đến lợi ích của dân. Cùng với việc đó, xử lý trong pháp luật những phần tử manh động và kích động quần chúng gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cán bộ và cho dân, cho tài sản công cộng.
Kiện toàn bộ máy quản lý cấp xã, Đảng và Chính quyền bổ sung những cán bộ có phẩm chất được dân tín nhiệm. Sửa đổi và hoàn thiện cơ chế mới phát huy được sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, từng bước thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

3. Kịch bản thứ ba


Công khai phê bình và tự phê bình về những sai lầm của cán bộ lãnh đạo xã, huyện và tỉnh trong việc ban hành và áp đặt những chủ trương, giải pháp không phù hợp với đường lối Ðổi mới của Ðảng, làm mất lòng dân, gây phẫn nộ trong quần chúng. Xử lý thích đáng những cán bộ Ðảng và Nhà nước ở các cấp xã, huyện, tỉnh mắc sai lầm nghiêm trọng đã được dân chỉ ra, những người chịu trách nhiệm về việc ban hành những văn bản, chỉ thị sai lầm, gây thiệt hại cho dân, làm mất uy tín của Ðảng và Nhà nước. Song song với công việc trên, dựa vào pháp luật để xử lý thích đáng những người lợi dụng phong trào quần chúng nhằm thực hiện những mưu đồ cá nhân, vi phạm luật pháp, làm hại đến lợi ích vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân dân và tài sản công cộng.
Nhanh chóng xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải tạo cơ bản bộ máy hành chính trên căn bản hoạt động theo chức năng, do vậy, phải bổ nhiệm những cán bộ được đào tạo nghiệp vụ hành chính, có phẩm chất đạo đức và được dân tin. Phân định rõ chức năng của cơ quan Ðảng và cơ quan hành chính Nhà nước để có hệ thống kiểm tra, chỉ huy thông suốt đến cấp xã, nơi trực tiếp với công sản hàng ngày của dân.
Trên cơ sở ổn định xã hội mà mấu chốt là sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế và xã hội theo cơ chế thị trường của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được vận dụng sáng tạo trên địa bàn nông thôn. Tạo ra động lực phát triển bằng việc xử lý thỏa đáng mối quan hệ lợi ích của người nông dân và nghĩa vụ xã hội, nghĩa vụ với đất nước trên căn bản của nhận thức đúng về vai trò và lực lượng của người nông dân trong giai đoạn lịch sử mới. Từ đó, có những sửa đổi lớn về mặt chính sách trên hướng Ðổi mới và sáng tạo để thực sự phát huy sức mạnh nội sinh, đưa nông nghiệp, nông thôn, nông dân vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Ba kịch bản nói trên cũng chỉ là những dự báo căn cứ vào những gì đang diễn ra. Ðương nhiên, điều mong muốn của người làm khoa học là muốn được thấy kịch bản thứ hai được chuyển dần sang kịch bản thứ ba.
Nông thôn và nông nghiệp của chúng ta từ sau Nghị quyết 10 vẫn đang phát triển trên căn bản của kinh tế hộ gia đình nông dân. Ðể cho hộ kinh tế gia đình chuyển dần từ hộ sản xuất tự cấp tự túc sang hộ kinh tế sản xuất hàng hóa còn là những phấn đấu gian khổ với rất nhiều điều kiện được tạo ra. Một trong những điều kiện tiên quyết nhất là phải có những thể chế thích hợp với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước bằng các cơ chế chính sách vĩ mô.
Sự biến Thái Bình sẽ là một cái hích mạnh mẽ cho những quyết sách đúng đắn để giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Mà nếu như vậy thì trong cái rủi có cái may.
Một điều tưởng như đã chìm vào trong quá khứ : mọi chính quyền nhà nước qua các biến thiên của lịch sử đều phải đối diện với nông dân, nông thôn, nông nghiệp ở một nước mà hệ văn minh lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa chi phối toàn bộ đời sống. Từ tháng 8 năm 45, chúng ta cứ tưởng là với công nông liên minh là nền tảng, nhà nước ta đã không phải lo sự đụng độ và đối đầu với cái biển nông dân mênh mông và mãnh liệt ấy. Thế mà giờ đây, hóa ra chính nhà nước công nông của ta cũng vẫn đang đứng trước một thách đố mới của câu chuyện cũ. Chỉ có điều, lịch sử phát triển theo đường xoáy trôn ốc. Vì vậy, lịch sử lại càng đòi hỏi bản lĩnh của Ðảng và nhà nước mà sứ mệnh của mình là xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh đi lên chủ nghĩa xã hội phải giải quyết một cách thỏa đáng và vững chắc vấn đề nông dân. Ðặc biệt là, khi chúng ta quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ta, một nước mà 80% cư dân sống ở nông thôn, thì vấn đề công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn càng là vấn đề bức xúc. Không làm sáng tỏ vấn đề này thì chưa thể định hướng được rõ đường lối công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Một lần nữa vấn đề nông dân lại được đặt ra !
Ngày 8 tháng 8 năm 1997

Tương Lai