Trang

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

NHỮNG IM LẶNG ĐÁNG KHINH


Cánh Cò
Báo chí Việt Nam không biết từ bao giờ đã có cụm từ “sự im lặng đáng sợ” khi mô tả các cấp chính quyền cao nhất không trả lời đơn thư hay phản ảnh của báo chí, nhân dân trước các tiêu cực. Lâu dần sự im lặng ấy đã có kết quả trông thấy: tham nhũng nhiều hơn, chống đối công khai hơn và toàn bộ các “mặt trận” đều tan vỡ.

Những im lặng ấy khi được nâng lên mức đáng sợ có làm cho Bộ Chính trị ưu tư hay không? Chắc chắn là không, mà ngược lại.


Đối với một số lãnh đạo cao nhất luôn chủ trương mọi việc phải bí mật, phải đóng cửa bảo nhau, phải xử lý nội bộ còn “công khai” là một từ taboo, nhạy cảm có thể làm chế độ sụp đổ. Im lặng sẽ tạo ra nhiễu thông tin do nhiều câu hỏi và không ít những câu hỏi ấy dẫn dư luận sang những câu trả lời mang tính suy luận và suy luận càng nhiều sự thật càng lùi xa.

Thí dụ như vụ bauxite.

Tại sao một dự án rõ ràng là chỉ có hại cho Việt Nam nhưng nhà nước vẫn im lặng để cho Bộ Công thương tái oai tác quái bất kể mọi chống đối từ các nhà khoa học cho tới nhân sĩ trí thức điển hình cả nước, và chưa một ai trong bốn ông cao nhất công khai làm rõ vấn đề trước người dân từ khi những gầu đất đầu tiên được múc lên từ Tây nguyên. Hai giả thuyết đặt ra đối với người theo dõi:

Phe thân Trung Quốc ghìm cương dư luận. Bất kể kết quả ra sao họ phải chứng tỏ cho Trung Quốc thấy quyền lực của phe này là có thể cô lập, không chế bất cứ ai để thực hiện những gì mà Việt Nam đã hứa.

Phe thứ hai, không thân ai cả chỉ thân với người thuộc phe mình và sẵn sàng thừa gió bẻ măng tạo dư luận bất lợi cho đối thủ bằng cách ngấm ngầm lợi dụng quyền lực đang có để đổ dầu vào lửa khi lửng lơ khuyến khích Bộ Công thương tiếp tục khai thác bauxite còn hậu quả tính sau: tính sổ cho người ký dự án.

Nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh là người trách nhiệm khi ông này vào ngày 3 tháng 2 năm 2001 ký trong Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc, tại điều khoản 6, Việt Nam và Trung Hoa “nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông”.

Ông Mạnh về hưu, ông Nguyễn Phú Trọng không chịu trách nhiệm và vẫn giữ im lặng. Trong trường hợp này im lặng không còn đáng sợ nữa vì nó đã trở thành quốc sách.

Để giải mã độc theo kiểu suy đoán này Bộ chính trị phải lấy gai để lể gai, chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phải lên tiếng bảo vệ những gì mà ông Nông Đức Mạnh đã ký. Mặc dù ông ăn nói không mấy lưu loát nhưng đừng để cái im lặng đáng sợ ấy quay lại bao vây mình.
Thí dụ thứ hai: 356 gia đình tại Dương Nội.

Cho tới nay chưa thấy Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên tiếng đối với vụ khiếu kiện của người dân Dương Nội khi một doanh nghiệp lại có thể công khai mua chuộc, sử dụng côn đồ, công an và cả cán bộ của UBND thành phố Hà Nội để bao che, đỡ đầu cho các hành động chỉ có thể xảy ra trong thời Pháp thuộc. 

Chính quyền càn quét, đánh đập, bỏ tù, ủi ruộng đang canh tác cùng muôn hình vạn trạng hình thức khác cốt để đẩy người dân ra khỏi đất đai của họ cho bằng được. 

EcoPark trong trường hợp này đứng cao hơn chính quyền bởi các nấc thang chất bằng tiền của họ. Công an đứng nhìn người dân bị côn đồ đánh đập. Cán bộ địa phương đổ trách nhiệm cho nhau và cho dân. UBND thành phố xem vụ này không phải của mình và Bộ Chính trị coi đây chỉ là một vụ tranh chấp không cần phải lên tiếng, vì vậy khi hàng đoàn dân oan Dương Nội kéo về văn phòng tiếp dân đưa đơn đã không được người nào ra nhận.

Hai chữ “nhân dân” đã bị xóa trắng ra khỏi bộ nhớ của đảng, của chính phủ.

Sự im lặng trong trường hợp này không còn đáng sợ nữa, nó đã trở thành đáng hy vọng đối với những ai tin vào sự nổi dậy của quần chúng và đáng lo cho những ai còn tin vào sức mạnh của dùi cui và bạo lực. Một sự im lặng đồng lõa với cái ác.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chính là người trách nhiệm trong vụ lên tiếng này. Ông có sứ mạng nối liền giữa chính phủ và dân, trong đó phần dân nghiêng hơn khi so với Thủ tướng. Khi thấy dân lầm than mà không lên tiếng là ác, khi thấy chính phủ bất công mà không can ngăn là hèn. Tôi tin ông không có đức tính nào trong cả hai điều vừa nói vì dù sao ông cũng là một chủ tịch nước gần dân hơn các ông tiền nhiệm.

Thí dụ thứ ba: Công an đánh dân chết trong đồn công an, Bộ trưởng Trần Đại Quang xem như mất tích.

Với học hàm học vị Giáo sư, Tiến sĩ được xem là dày cộp so với nhiều bộ trưởng công an các đời trước, Bộ trưởng Trần Đại Quang khác với hầu hết các bộ trưởng của triều đại Nguyễn Tấn Dũng: ông không hề lên tiếng trước bất cứ trường hợp tiêu cực nào xảy ra trong ngành công an, kể cả vụ Phạm Quý Ngọ, một thứ trưởng bị tố đã ăn hối lộ 500 ngàn đô la để rò rỉ thông tin cho Dương Chí Dũng chạy trốn. 

Tuy nhiên điều này dễ hiểu vì ông sợ bức dây động rừng. Nhưng điều khó hiểu hơn cả là trước các thông tin từ báo chí về việc công an tra tấn người bị bắt trong đồn đến chết xảy ra tràn lan, ông vẫn im lặng, làm như ông đang giữ chức Bộ trưởng công an của nước bạn chứ không phải tại Hà Nội. 

Ông Trần Đại Quang có nỗi khỗ tâm gì? Liệu nỗi khổ tâm ấy có lớn hơn sự uất ức của hàng trăm thân nhân các nạn nhân bị nhân viên dưới quyền ông lạm dụng “quyền được đánh” của họ hay không?

Sự im lặng của ông có thể ví ngang với nụ hôn Juda trong kinh thánh. Juda lừa bọn Do Thái khi nghĩ rằng Chúa rất quyền phép không thể nào bị bắt và ông ta đã nhận 30 đồng bạc để thông đồng với chúng: khi hôn ai thì người đó là Chúa Jesus.

Chúa quyền phép đã đành nhưng nhân dân không có quyền phép như người ta nghĩ. Họ chỉ có nổi loạn, mà nổi loạn thì không thể xem là quyền phép.

Hôn trong sự im lặng để khuyến khích bọn Do Thái giết người có khác gì sự im lặng của ông Bộ trưởng trước hành vi bất nhân hàng loạt? Sự im lặng này không còn khó hiểu, nó đã có một định nghĩa mới: Sự im lặng bất nhân.

Thí dụ thứ tư: Bộ trưởng y tế và bệnh sởi.

Mọi thông tin về sởi đã có. Các tiêu cực chung quanh nó cũng đã và đang có. Bà bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến bị báo giới giải phẩu tới những tế bào nhỏ nhất. Lần đầu tiên giới giải trí lên tiếng đòi bà từ chức. Chính phủ im lặng như từ xưa tới nay và sự im lặng này có thể nhìn ở một góc nào đó thì chính phủ đúng. Tuy nhiên cái đúng ấy đã bị giới hạn khi sự việc có khả năng lan tới tầm uy tín quốc gia và khả năng chịu đựng hạn hẹp của người dân.

Một bộ trưởng có quyền giải quyết những việc xảy ra liên quan đến bộ của mình mà chính phủ không nên can thiệp, đó là tiêu chí đúng đắn của một đất nước dân chủ. Tuy nhiên giới hạn của tiêu chí này nằm ở chỗ: chính phủ phải can thiệp ngay lập tức nếu trình độ, cách giải quyết vấn đề, ngay cả sự phát ngôn lệch chuẩn của một bộ trưởng. 

Sự can thiệp này là chìa khóa cho mọi chính quyền dân cử, riêng với chính quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng e rằng sẽ có ngoại lệ vì như nhiều thủ tướng đời trước từng tuyên bố: thủ tướng không có quyền bãi nhiệm một bộ trưởng.

Không bãi nhiệm được chẳng lẽ không nói được?

Ít ra một tiếng nói của Thủ tướng trong lúc này sẽ có tác dụng giải vây cho Bộ y tế qua trả lời của chính bà Tiến. Mọi thắc mắc, nghi ngờ hay cáo buộc bà Tiến sẽ được giải tỏa và vượt qua sự im lặng ấy là trách nhiệm của Thủ tướng chính phủ chứ không ai khác.

Im lặng trước chống đối rộng khắp của nhân dân phản ánh sự run sợ của chính quyền và sự run sợ ấy chỉ có thể làm nguội đi bằng các giải thích và chịu trừng phạt của dư luận.
Thí dự thứ năm: xé bằng của trí thức.

Sự im lặng tiếp tục bao trùm hai bộ phận của ngành giáo dục: Bộ giáo dục, Đại học sư phạm Hà Nội khi chính ra hai cơ quan này có trách nhiệm giải thích cho dư luận biết về hành động tịch thu bằng thạc sĩ của cô giáo Đỗ Thị Thoan, bút danh Nhã Thuyên bởi một hội đồng thẩm định luận văn khác do Đại học sư phạm Hà Nội triệu tập. 

Thạc sĩ Đoan được đánh giá đã trình một luận văn thạc sĩ xuất sắc với điểm 10 tuyệt đối khi cô nghiên cứu khoa học về nhóm Mở miệng và những hoạt động của họ với cách nhìn mới. Hơn ba năm sau khi lấy bằng và được mời ở lại trường tiếp tục giảng dạy, vài kẻ tố cáo cái luận văn này có tư tưởng chống đảng, vô văn hóa và yêu cầu hủy bỏ.

Những tiếng nói bâng quơ ấy không ngờ lại được những kẻ khác thực hiện cho bằng được. Một Hội đồng thẩm định được lập ra, luận văn thạc sĩ bị xé toạc và người hướng dẫn cô giáo Đoan bị cho về vườn.

Một vài người trong “hội đồng xé” ấy viết bài bênh vực cho luận điểm xé của họ, tuy nhiên đây không phải nhân vật thẩm quyền trả lời dư luận, người phải trả lời là Bộ trưởng Bộ giáo dục, kế đó là Hiệu trưởng trường Đại học sư phạm Hà Nội nơi tổ chức và thực hiện việc cấp và xé luận văn thạc sĩ ấy.

Cho tới nay họ vẫn im lặng. Cho tới nay hai thể chế giáo dục ấy vẫn tỏ ra cao ngạo trước đòi hỏi bức thiết của dư luận: không được quyền thao túng nền học thuật nước nhà dù anh là ai và quyền lực đến đâu.

Sự im lặng này ban đầu thấy vô hại hơn bauxite, hơn cướp đất, hơn bệnh sởi, hơn công an đánh chết dân nhưng thực ra nó chính là đầu mối cho tất cả các nguy hại này.

Nền giáo dục bị bức hại bởi các quyết định chính trị mờ ám sẽ sản sinh ra loại vi rút câm nín nguy hiểm cho cả dân tộc. Thử tưởng tượng khi tất cả các học hàm học vị đều dắt tay nhau đi dưới sự chỉ đạo của đảng hay ít ra của những kẽ nịnh đảng thì nền học thuật của Việt Nam sẽ ra sao?

Tất cả những im lặng ấy bây giờ đã không còn đáng sợ nữa mà chính danh nó phải được nói lại bởi chữ khác: “đáng khinh”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét