Trang

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

ĐỖ LĂNG TẨU

05/5/2012



Bạch Cư Dị (772-846) tự là Lạc Thiên, cuối đời hiệu là Hương Sơn cư sĩ, quê ở Hạ Khuê (nay thuộc tỉnh Thiêm Tây), đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên 16 (800), làm Hiệu Thư lang rồi được thăng làm Tả thập di, Hàn lâm học sĩ. Vì nhiều lần dâng tấu chương đề nghị cải cách nên bị bọn quyền thần bài xích, bị biếm làm Tư Mã Giang Châu, sau chuyển làm Thứ Sử Trung Châu, Hàng Châu, Tô Châu, thái tử thái phó (thầy dạy Thái Tử) trí sĩ với chức Hình Bộ Thượng Thư).

Bạch Cư Dị là nhà thơ hiện thực lớn thời Trung Quốc, đề xướng phong trào Tân Nhạc phủ. Thơ ông mang tính hiện thực sâu sắc, đồng thời thơ trữ tình cũng đạt thành tựu cao, trong đó tiêu biễu là Trường Hận ca và Tỳ bà hành.



Đỗ lăng Tẩu là bài thơ khi đọc lên thấy hơi hướng của những ngày hôm nay ở Việt nam. Đó là nỗi buồn cắt thịt nhói tim khi chứng kiến cảnh bất công xã hội. Theo dõi vụ cưỡng chiếm đất Văn giang của lũ ác bá thời nay bỗng nhớ ĐỖ LĂNG TẨU
Đây là bản dịch của Doãn Kế Thiện .


ĐỖ LĂNG TẨU

Đỗ Lăng tẩu, Đỗ Lăng cư,
Tuế chủng bạc điền nhất khoảnh dư.
Tam nguyệt vô vũ hạn phong khởi,
Mạch miêu bất tú đa hoàng tử.
Cửu nguyệt giáng sương thu tảo hàn,
Hòa tuệ vị thục giai thanh can.
Trưởng lại minh tri bất thân phá,
Cấp liễm bạo trung cầu khảo khóa.
Điển tang mại địa nạp quán tô,
Minh niên y thực tương hà như?
Bác ngã thân thượng bạch,
Đoạt ngã khẩu trung túc
Ngược nhân hại vật tức sài làng,
Hà tất câu trảo cứ nha thực nhân nhục?
Bất tri hà nhân tấu hoàng đế,
Đế tâm trắc ẩn tri nhân tệ.
Bạch ma chỉ thượng thư đức âm:
Kinh kì tận phóng kim niên thuế.
Tạc nhật lí tư phương đáo môn,
Thủ trì sắc điệp bảng hương thôn.
Thập gia tô thuế cửu gia tất,
Hư thụ ngô hoàng quyên miễn ân.

Dịch Thơ:

Ông Già Đỗ Lăng

Ông già Đỗ Lăng, quê Đỗ Lăng,
Mấy thửa ruộng xấu cấy quanh năm.
Tháng ba không mưa, lại gió nóng,
Mạ không lên được đều chết bỏng.
Tháng chín lạnh sớm, sương xuống nhiều,
Gié lúa chưa chín đều héo queo.
Quan trên biết rõ mà không xét,
Thúc lấy đủ tô cầu lập công.
Bán đất, cầm dâu nộp cho đủ.
Cơm áo sang năm trông vào đâu?
Lột áo trên mình ta,
Cướp cơm trong miệng ta.
Hại người hại vật là hùm sói,
Cứ gì cào móng, nghiến răng ăn thịt người!
Không biết người nào tâu hoàng đế,
Vua thương bíêt được người tác tệ.
Chiếu thư nói rõ sự ban ơn;
Kinh kì năm nay tha hết thuế.
Lí dịch mới đến ngày hôm qua,
Tay cầm sắc điện dán thôn nhà.
Mười nhà chịu thuế, chín đã đóng,
Ơn vua tha thuế cũng bằng thừa!



(Ít nhất, Triều đình phong kiến thủa xưa còn biết khoan sưu thuế. Bây giờ dân bị bóc lột trơ xương quan vẫn gặm như sói đồng hoang)


Mai Xuân Dũng posted

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét