Trang

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Phụ nữ và đàn bà – females và women


Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn

Hôm kia, viết entry “Phụ nữ Bắc kì thiếu vitamin D!” tôi được một độc giả nhắc nhở rằng tựa đề đó có thể gây hiểu lầm và phản cảm. Thật ra, tôi chỉ muốn nói cho vui (chứ chẳng có ý gì), nhưng cũng xin ghi nhận lời nhắc nhở đó. Có khi mình viết vui nhưng người khác thì không nhìn như thế. Trong tiếng Việt, hình như Bắc kì bị hiểu là hàm ý tiêu cực hay nhạo báng (?), còn Nam kì và Trung kì thì chẳng thấy ai phàn nàn! Hôm nay, đọc bài “Tính chính trị của ngôn ngữ” của Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc, một bài rất hay, nên cũng muốn có thêm vài lời về chữ male và female, và sex với gender trong tiếng Anh.

Hai chữ mà tôi muốn nhắc đến là đàn bà và phụ nữ. Trong bài viết, có đoạn làm tôi giật mình, vì lần đầu mới biết đến:

“Để chỉ những người thuộc phái nữ, tiếng Việt có hai từ: ‘phụ nữ’ và ‘đàn bà’. Trong hai từ ấy, chữ ‘phụ nữ’ có âm hưởng lịch sự và trang trọng hơn hẳn chữ ‘đàn bà’. ‘Phụ nữ’ là từ có tính nghi thức (formal) để chỉ người hoặc những người mình kính trọng; “đàn bà” là từ bình dân, được dùng trong trường hợp hoặc thân mật hoặc khinh thường. Thế nhưng, “phụ nữ”, vốn là từ Hán Việt, trong gốc gác của nó, ở Trung Quốc, lại không sang và không nhã như trong tâm thức người Việt: Về từ nguyên, chữ ‘nữ’ được tượng trưng bằng hình ảnh một người đang quỳ với hai bàn tay chắp lại đầy cung kính (女); chữ ‘phụ’, chỉ đàn bà, được tượng trưng bằng hình ảnh một người nữ với cây chổi (婦), nghĩa là kẻ mà số phận bị buộc chặt vào các công việc nội trợ, chỉ quanh quẩn trong nhà, hoặc tệ hơn, trong bếp.”

Hoá ra, chữ phụ nữ có một nguồn gốc không mấy hay ho như thế! Hồi nào đến giờ tôi vẫn dùng chữ này trong các bài báo khoa học, vì nghĩ đó là một cách nói trang trọng dành cho phái nữ. Trong khoa học mà viết “Vitamin D ở đàn bà Việt Nam” thì thật khó đọc quá.

Bài viết của anh đồng hương tôi, Nguyễn Hưng Quốc, còn trích dẫn một phát hiện rất thú vị của một học giả người Mĩ, nhận xét rằng:

“Giữa nam và nữ, hầu hết các ngôn ngữ đều thiên vị phái nam. Trong tiếng Anh, đàn ông (man) tượng trưng cho loài người nói chung (mankind / human); trong chữ Hán, có khoảng 250 từ có chứa đựng từ tố nữ, trong đó, ngoài những từ thuần miêu tả, còn lại hầu hết đều mang nghĩa tiêu cực, như một cách đồng nhất phụ nữ với cái xấu: chữ “gian” (gian đối) được tạo thành bởi hình ảnh ba người phụ nữ (姦); trong chữ “nộ” (giận dữ) cũng được tạo thành bởi hình ảnh trái tim của người phụ nữ (怒); trong chữ “đố” (妒) (ganh ghét) và chữ “yêu” (要) (yêu sách, đòi hỏi) cũng có bộ nữ bên cạnh hoặc phía dưới, v.v.”

Lại thêm một phát hiện (đối với cá nhân tôi) rất đáng biết. Đọc đoạn này tôi chợt nhớ đến ca khúc nổi tiếng với tựa đề Đàn bà của nhạc sĩ Song Ngọc. Trong bài đó, có những lời ca có thể nói là … cay cú:

Ôi đàn bà là những niềm đau

hay đàn bà là ngọc ngà trăng sao

Ôi đàn bà lại là con dao làm tim nhỏ máu.

Ôi đàn bà dịu ngọt đêm qua

Hay đàn bà lạnh lùng hôm nay

Ôi đàn bà là vần thơ say

Khúc nhạc chua cay.

Không biết khi viết bài này, nhạc sĩ có tham khảo ý nghĩa chữ phụ nữ trong tiếng Hán? :-)

Quay lại chuyện nghiêm chỉnh trong văn phong khoa học. Trong tiếng Anh, những danh từ như male / female, gender / sex cũng có khi gây ra vài tranh cãi. Trong văn phong khoa học (tiếng Anh), male và female được dùng rất nhiều và rất phổ biến. Chúng ta hay bắt gặp những cách viết như “Among female patients” hay “In males, the relationship was ….”. Nhưng gần đây, có người chất vấn cách dùng đó. Có lần trong một cuộc họp ban biên tập một tập san y khoa mà tôi là thành viên, có người đặt vấn đề là có nên dùng từ men / women thay cho males / females. Sau một hồi thảo luận, chúng tôi đồng ý là nên thay thế. Lí do là chữ male / female có thể hiểu là giống đực giống cái, chỉ thích hợp cho thí nghiệm trên động vật như chuột, thỏ, heo, v.v. chứ không thích hợp cho người. Để đề cập đến người, cần phải và nên dùng danh từ men và women. Với tôi, đó là một bài học, và cũng là một kinh nghiệm.

Thế còn chữ gender và sex thì sao? Trong hồ sơ bệnh lí (tiếng Anh), chúng ta hay dùng chữ sex để chỉ giới tính của bệnh nhân, và rất ít hồ sơ bệnh lí dùng chữ gender. Sex như chúng ta hiểu là giới tính. Sau này, ở Việt Nam, người ta có khi viết ngắn hơn: giới. Còn gender thì phần lớn từ điển dịch là giống. Tôi nghĩ cách dịch đó không hẳn là chuẩn nếu hiểu đúng theo nghĩa tiếng Anh. Nhiều chuyên gia xã hội học chỉ ra rằng:

Sex là một biến định danh mang tính sinh học. Chúng ta có thể viết sex chromosome, sex hormones, chứ không ai viết gender chromosome, hay hormones of gender cả.
Gender cũng là một biến định danh dùng để mô tả đặc điểm mà xã hội và nền văn hoá định danh là đực (masculine) hay cái (feminine).
Theo cách phân biệt này thì sex là cố định, xuất phát từ tự nhiên, còn gender thì mang tính văn hoá và có ý nghĩa xã hội hơn là ý nghĩa sinh lí. Hiểu theo cách này, gender là một social construct, còn sex là một biologic construct. Nếu một người khi sinh ra có sex là nam, nhưng sau này giải phẫu thành nữ thì mô tả như sau: sex là female, nhưng gender là male. Rắc rối!

Tôi nghĩ gender có thể dịch là giới tính, còn sex là giới. Một người là nam (sex = male) nhưng có hành vi giống nữ tính qua ăn mặc chẳng hạn có thể gọi là nữ tính (gender = female). 

Sẵn đây cũng xin đề cập đến một cách viết mà tôi hay thấy trong các bài báo y khoa bên nhà. Nhiều đồng nghiệp, có lẽ theo thói quen, hay viết như “Trong nữ, nguy cơ mắc bệnh là …”. Đây là cách viết theo Tây, như in women, the risk of disease was … Nhưng tôi nghĩ không nên dùng chữ trong nữ, mà nên dùng chữ ở nhóm nữ. Trong nữ thì có thể bị hiểu lầm, nhưng ở nhóm nữ thì chắc khó bị hiểu lầm.

Vậy xin lưu ý các bạn nào đang viết bài báo khoa học: nếu đối tượng nghiên cứu là người, nên dùng men / women thay cho males / females. Còn dùng gender hay sex cho "phải đạo" hơn thì tuỳ thuộc vào bối cảnh.

NVT
Nguồn: http://nguyenvantuan.net/

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

VỤ XỬ ĐỒNG NỌC NẠN VÀ ĐOÀN VĂN VƯƠN


25/3/2013


Vụ án Nọc Nạn là vụ tranh chấp đất đai xảy ra năm 1928 tại làng Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu (nay là ấp 4, xã Phong Thạnh B, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu) giữa một bên là các gia đình nông dân Biện Toại, Mười Chức và bên kia là giới địa chủ cường hào ác bá và quan chức chính quyền thực dân Pháp cùng tham quan Nam triều. Vụ án phản kháng của nông dân Phong Thạnh được chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn vinh như một biểu hiện của sự đấu tranh và phản kháng của nông dân với chính quyền thực dân Pháp.
Nguyên nhân sâu xa của vụ án là những mâu thuẫn, bất công về đất đai có dính đến tham nhũng, hối lộ.
Trước 1900, một nông dân đến khai phá khu rừng ở rạch Nọc Nạn, được 73 ha. Năm 1908, nông dân này chết, để lại đất cho con là Hương chánh Luông.Luông qua đời, người con trai cả là Biện Toại thừa kế phần đất trên. Năm 1917, Hoa kiều giàu khét tiếng Bạc Liêu là Mã Ngân, thường gọi là Bang Tắc, muốn tranh chiếm đất đai nhà Biện Toại. Là người rành rẽ luật lệ, Bang Tắc mua lại phần đất giáp ranh Biện Toại của bà Nguyễn Thị Dương, nhưng trong hợp đồng ghi bán phần đất với ranh giới, bao trùm luôn khoảnh đất anh em Biện Toại đang sử dụng. Bang Tắc biết rõ đất của nhà Biện Toại mới chỉ có bằng khoán tạm.
Tranh chấp đất nổ ra, hai phía thưa kiện nhau bốn lần lên tỉnh Bạc Liêu và bốn lần lên Thống đốc Nam Kỳ, lên cả Toàn quyền Đông Dương. Năm 1919, Bang Tắc sai tá điền đốt một căn chòi ruộng và giết một con trâu của Biện Toại để dằn mặt. Anh em Biện Toại không phản kháng, chờ nhà chức trách phân xử. Viên quan phủ H. ở quận Giá Rai, theo dư luận nghi ngờ, đã nhận tiền của Bang Tắc, yêu cầu chia đôi phần đất: Biện Toại một nửa, Bang Tắc một nửa.
Cũng năm 1919, quan phủ Ngô Văn H. được cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng phái viên (commission administrative), có trách nhiệm khảo sát đất đai, chính thức cấp bằng khoán đất ở làng Phong Thạnh. Hội đồng này xác nhận phần đất của gia đình Biện Toại thuộc về Nguyễn Thị Dương, và nay là của Bang Tắc.
Ngày 13 tháng 4 năm 1926, Thống đốc Nam Kỳ ký Nghị định bán sở đất 50 ha trên phần đất của Biện Toại với giá 5.000 đồng cho Bang Tắc. Đến đây, chính quyền chính thức công nhận phần đất mà gia đình Biện Toại đã hai đời khai thác và sử dụng là của Bang Tắc. Anh em Biện Toại vô cùng căm phẫn, chống đối ra mặt. Bang Tắc không dám làm to chuyện, bèn bán sở đất 50 ha cho một người rất quyền lực là bà Hà Thị Tr., mẹ vợ anh ruột quan phủ H.
Sơ lược về thảm kịch đồng Nọc Nạn
Sáng 16 tháng 2 năm 1928,hai viên cò Pháp là Tournier và Bouzou cùng bốn lính mã tà từ Bạc Liêu đến Phong Thạnh để tiếp tay viên chức làng tịch thu lúa của gia đình Biện Toại. Đến gần đống lúa, Tournier yêu cầu hương chức làng mời một người trong gia đình ra chứng kiến. Mười lăm phút sau, cô Nguyễn Thị Trong, em gái Biện Toại đi ra, dắt theo một bé gái 14 tuổi, tên là Tư. Tournier đuổi Trong, vì cho cô là phụ nữ và còn nhỏ tuổi, không thể chứng kiến việc đong lúa. Trong không đi, còn yêu cầu đong lúa xong phải ghi biên nhận.
Tournier từ chối, tát tai Trọng. Cô lập tức rút ra cây dao nhỏ. Tournier đập báng súng, làm cô ngất đi. Bouzou tước dao khỏi tay Trọng. Trong lúc lấy dao, ông này bị một vết thương nhỏ không đáng kể ở tay. Đứa cháu tên Tư bèn chạy về cấp báo. Anh em Biện Toại từ nhà chạy ra, mang theo dao mác gậy gộc. Họ chia thành hai tốp, tốp đầu do Mười Chức, em ruột Biện Toại, dẫn đầu. Tốp thứ nhì do bà Nghĩa (vợ Mười Chức) dẫn đầu, tổng cộng năm đàn ông, năm phụ nữ. Tournier ra lệnh cho lính chuẩn bị ứng phó, bắn chỉ thiên, nhưng Mười Chức không dừng lại. Tournier bèn bắn Mười Chức. Bị thương nặng, nhưng Mười Chức vẫn gắng nhào đến đâm lưỡi mác trúng bụng Tournier, rồi mới ngã xuống.
Bạo lực trở nên không thể kiểm soát. Bouzou rút súng bắn bị thương nặng bốn người phía Biện Toại. Hết đạn, Bouzou lại lấy súng của Tournier bắn tiếp, làm nhiều người thương vong. Sáng hôm đó, Mười Chức và vợ đang mang thai (bà Nghĩa), một người anh tên Nhẫn, đều chết. Nhịn, Liễu (hai em Mười Chức) bị thương nặng. Ba ngày sau, Nhịn chết tại bệnh viện. Về phía nhà cầm quyền, Tournier thiệt mạng ngày 17 tháng 2 tại bệnh viện Bạc Liêu.

Ngày 17 tháng 8 năm 1928 (Nghĩa là sau vụ án mạng đúng 6 tháng) Tòa Đại hình Cần Thơ xét xử vụ án Nọc Nạn.
Đây là vụ xử công khai của chế độ thực dân nên trừ tờ La Dépâche l’Indochine, tất cả báo chí Sài Gòn đều có mặt: L’Écho Annamite, Đông Pháp thời báo, L’Impartial, l’Opinion, Le Courrier Saigonnais, Le Phare, La Tribune Indochinoise.Nhân dân đến dự phiên tòa rất đông.

Chánh án là De Rozario, công tố viên là Moreau, Hội thẩm là ông Sự. Các luật sư biện hộ (miễn phí) cho gia đình Biện Toại là người Pháp, Tricon và Zévaco, theo lời nhờ của nhà báo Lê Trung Nghĩa.
Kết thúc phiên tòa, Tòa Đại hình Cần Thơ tuyên: Biện Toại, Nguyễn Thị Liễu (em út Toại) và Tia (con trai Toại) được tha bổng. Cô Nguyễn Thị Trọng, sáu tháng tù (đã bị tạm giam đủ sáu tháng). Miều (chồng Liễu), hai năm tù vì có tiền án ăn trộm.
Tuy các quan tòa là người Pháp trong bộ máy tư pháp của thực dân nhưng dư luận nhân dân rất ủng hộ vì công lý đã được tôn trọng. Phiên tòa công khai không có bất cứ sự đe dọa, cấm cản nào của nhà chức trách.
Từ vụ án Nọc nan nghĩ về vụ án Đoàn văn vươn.
Vụ án cưỡng chế đất đai ở Tiên Lãng là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Vụ án thu hút dư luận Việt Nam vì đây được coi là đỉnh điểm về xung đột về đất đai, của những bất cập về cả pháp luật đất đai, việc thực thi pháp luật ở các cấp địa phương và là một tổn thất chính trị to lớn. Kết quả là 4 công an và 2 người thuộc ngành quân đội bị thương,6 người dân bị bắt và bị khởi tố, việc thu hồi đất bị hủy bỏ, một số cán bộ địa phương bị đình chỉ công tác và bị cách chức.
Đoàn Văn Vươn sinh sống tại Cống rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng,từng phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam, là kĩ sư nông nghiệp tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Từ năm 1993, ông Vươn thực hiện việc quai đê lấn biển để nuôi trồng thủy sản. Ông khởi nghiệp bằng việc bán tài sản, vay mượn bạn bè, người thân và ngân hàng, chịu nhiều thiệt hại mất mát trong quá trình lấn biển, bao gồm cái chết của con gái đầu 8 tuổi bị rơi xuống cống chết đuối trong một lần theo bố mẹ ra đầm.
Theo tài liệu của Wikipedia năm 1993, huyện Tiên Lãng ban hành quyết định giao cho Đoàn Văn Vươn diện tích 21ha đất bãi biển khu vực nam cống Rộc thuộc xã Vinh Quang để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản, thời hạn sử dụng là 14 năm. Trong quá trình sử dụng ông đã đắp bờ bao để sử dụng vượt quá diện tích được giao.
Từ năm 1995, ông đã xây được một con đê cao tạo thành bờ bao cho một vùng đầm rộng lớn hàng chục ha cùng hàng ngàn cây sú, vẹt mọc lên tạo thành cánh rừng chắn sóng.Gia đình ông đã có đầm nuôi tôm, cá để sinh sống.
Tháng 3 năm 1997, ông Vươn làm đơn xin giao đất bổ sung phần diện tích lấn biển ngoài diện tích được giao. Tháng 4 năm 1997, huyện Tiên Lãng ra quyết định giao bổ sung cho ông Vươn 19,3ha giáp với diện tích đã giao, thời hạn 14 năm. Tổng cộng ông Vươn được sử dụng 40,3ha đất để nuôi trồng thủy sản.
Đê lấn biển của ông còn được cho rằng đã góp phần giúp nhân dân trong vùng không phải lo vỡ đê mỗi khi bão lũ.Ông Vươn đã đắp được một số đoạn đê để bảo vệ đầm thủy sản của mình, ví dụ như đoạn đê công vụ. Chính quyền huyện sau này cũng đắp thêm được một số đoạn nhỏ của đê công vụ, nhưng lại nhận rằng chính quyền đã có công đắp đê chứ không phải ông Vươn. Việc này đã bị người dân địa phương phản đối.
Đến thời điểm hết hạn giao đất, năm 2009, huyện Tiên Lãng đã làm thủ tục thu hồi toàn bộ 40,3 ha của ông Đoàn Văn Vươn ( ? ). Tuy nhiên, ông Vươn đã khiếu nại việc thu hồi gộp cả 19,3ha của ông lên huyện, sau đó không đồng tình quyết định của huyện, ông khởi kiện lên Tòa án.
Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Tòa án huyện Tiên Lãng đã xét xử sơ thẩm và bác đơn khởi kiện của ông Vươn; giữ nguyên quyết định thu hồi. Đoàn Văn Vươn tiếp tục kháng cáo bản án sơ thẩm. Tóa án Nhân dân thành phố Hải Phòng đã thụ lý hồ sơ và tiến hành “hòa giải” bằng “Biên bản thỏa thuận”: nếu ông rút đơn thì UBND huyện Tiên Lãng sẽ tiếp tục cho thuê đất.
Sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 19 tháng 4 năm 2010, ông Vươn rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Ba ngày sau, Tòa án Nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án hành chính này. Sau đó, huyện Tiên Lãng đã nhiều lần gửi thông báo làm việc với ông Vươn về việc thu hồi đất đã hết thời hạn sử dụng. Ông Vươn vẫn yêu cầu huyện tiếp tục cho ông thuê đất để nuôi trồng thủy sản.
Sáng 5 tháng 1 năm 2012, huyện Tiên Lãng đã tiến hành cưỡng chế với lực lượng đông đảo hơn 100 người bao gồm cả lực lượng công an và quân đội do phó chủ tịch huyện Nguyễn Văn Khanh làm trưởng ban cưỡng chế nhưng đã bị gia đình ông Đoàn Văn Vươn chống trả. Đoàn Văn Vươn vắng mặt vì lúc đó bận lên Viện Kiểm sát nhân dân Hải Phòng kháng cáo nhưng gia đình đã dùng mìn tự chế và đạn hoa cải bắn trả nhằm vào lực lưỡng cưỡng chế, hậu quả là 4 công an và 2 người thuộc ngành quân đội bị thương.
Vụ án chấn động này đã gây nên một làn sóng bất bình trong cả nước.
Nguyên Chủ tịch nước Việt Nam, Lê Đức Anh nói, trong vụ cưỡng chế này, chính quyền huyện, xã đều sai và đây là bài học mà chính quyền cả nước phải rút kinh nghiệm.Ông cũng cho rằng "Thành ủy Hải Phòng và UBND TP Hải Phòng phải có trách nhiệm xử lý, làm sai chỗ nào thì phải nhận sai ở chỗ đó, không được trả lời loanh quanh và không được che giấu sai phạm. Trả lời tiền hậu bất nhất là không thể được" và "sử dụng bộ đội để cưỡng chế với dân là tuyệt đối sai" 
Theo Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, đây có thể coi là một tổn thất chính trị lớn.
Ngày 2/2/2012, văn phòng Chính phủ cho biết thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng quyết định sẽ chủ trì họp chỉ đạo giải quyết vụ việc. Ngày 10/2, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận chính quyền đã sai toàn diện trong vụ Tiên Lãng.
Ngày 18/3, TAND TP Hải Phòng đã ấn định thời điểm xét xử hai vụ án liên quan đến vụ cưỡng chế thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng). Theo lối dùng văn phạm hành chính của ngành Tư pháp XHCN Việt nam thì đây là vụ xử Đoàn Văn Vươn với tội danh "Giết người, chống người thi hành công vụ. Cách dùng ngôn ngữ  có vẻ “thực dân” hơn cả tòa đại hình thực dân Pháp. Điều  này gây ra rất nhiều bức xúc cho dư luận xã hội.
Như đã so sánh ở trên, vụ án Nọc Nạn do các quan tòa thực dân người Pháp xét xử những người nông dân Việt nam hóa ra khá công bằng thể hiện trong kết quả nghị án. Vậy, trong vụ án Đoàn Văn Vươn, các quan tòa của đảng xẽ hành xử ra sao khi phía bị cáo là những người nông dân bị cướp đất, cướp thành quả lao đang là một dấu hỏi lớn đặt ra cho cả xã hội.
Trong vụ xử sắp tới đây, quan tòa là những người Việt nam, đại diện cho ngành Tư pháp Việt nam sẽ xử những người thuộc giai cấp “tiền phong” của đảng chưa kể họ còn là cựu chiến binh đã từng cầm súng bảo vệ đảng.
Dù mất niềm tin vào công lý khi có quá nhiều vụ xử án kiểu “bỏ túi”, dù biết rằng bộ máy thực thi công lý bị đặt dưới cơ quan công quyền và cơ quan công quyền lại bị dẫn dắt bởi những cá nhân lãnh đạo trong đảng, dù biết rằng với thiết chế nhà nước như vậy, thực chất luật pháp chỉ để trang trí cho đẹp nhưng nhân dân vẫn hy vọng ngành Tư pháp Việt nam sẽ không vì bảo vệ cho cơ quan công quyền mà đưa ra một bản án thiên lệch và mất lòng dân.
Khi con sói giết, ăn thịt cừu thì đó chỉ là hành động được dẫn dắt bởi bản năng sinh tồn của giống vật không có tư duy. Nhưng nếu con  người có tư duy, hành động chà đạp lên chính đồng loại của mình bất chấp lẽ phải thì con người như thế không thể được đặt ngang bằng với loài lang sói.

Mai Xuân Dũng

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

NGẪM VỀ VĂN NGHỆ SỸ-TRÍ THỨC




NGẪM - 1


Canh Le 


Ảnh Internet
    Ở Việt Nam hiện nay, các "văn nghệ sĩ - trí thức" phải tự làm hồ sơ và đơn "xin" để được nhà nước "phong tặng" cho các "danh hiệu cao quý" : Nghệ Sĩ Ưu Tú, Nghệ Sĩ Nhân Dân, Nhà Giáo Ưu Tú, Nhà Giáo Nhân Dân ...

    Từ chuyện nay nhớ chuyện xưa, Học giả Nguyễn Hiến Lê trong Hồi Ký của mình có kể rằng dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, chính quyền có nhiều lần trao tặng cho Ông Kỷ Niệm Chương và Phần Thưởng ( bằng hiện kim ) để ghi nhận công lao đóng góp cho nền Văn Hóa nước nhà, và mời Ông cộng tác trong Bộ Quốc Gia Giáo Dục, nhưng Ông đã từ chối vì còn bất mãn với một số chính sách của chế độ, chính quyền cũng đành thôi mà cũng không gây khó dễ gì ...

    Qua hai câu chuyện này, tôi có một số nhận xét :

1-   Chính quyền thời trước đã làm đúng chức trách của mình, là phát hiện nhân tài, ghi nhận công lao, tưởng thưởng xứng đáng, và trọng dụng ... Còn việc có nhận hay không là việc của họ, chính quyền phải tự xét lại mình có đủ "tư cách" để "phát hiện", "ghi nhận", "tưởng thưởng", và "trọng dụng" hay chưa !? Cả người "cho" và người "nhận" đều giữ và thể hiện được lòng tự trọng của mình ... ! ...

    Chính quyền thời nay thì lại đặt ra một cơ chế "xin - cho" một cách trịch thượng, tự cho mình cái quyền "toàn tri", ban phát trên mọi lĩnh vực, phản ánh một não trạng u tối và thấp kém ... Cả người "cho" và người "nhận" đều "nhục" cả ... ! ...

2-   Về phía Văn Nghệ Sĩ - Trí Thức, nếu là "chân chính" thì không ai lại đi làm cái việc "xin" một cách đớn hèn ấy cả, chưa kể có một số kẻ còn phải chạy chọt để "mua" ...

3-   Nhìn ra thế giới, tôi chắc rằng nhà nước Pháp khi trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh, nhà nước Anh khi phong tặng Tước Hiệu Hiệp Sĩ, ... không ai làm như ở ta hiện nay cả, cả người "cho" lẫn người "nhận" ... Có lẽ nhờ vậy mà họ Văn Minh chăng !? Hay là bởi vì họ Văn Minh nên họ mới như vậy !?

4-   Ở các nước Văn Minh, giới Chính Trị Gia thường hay kết thân với giới Văn Nghệ Sĩ - Trí Thức, vì ở các nước đó, Văn Hóa dẫn đường cho Chính Trị ... Văn Nghệ Sĩ - Trí Thức là những con người cực kỳ nhạy cảm trước những tín hiệu biến chuyển của xã hội, là những người luôn đi tiên phong trong các trào lưu tư tưởng mới ... Gần họ, giới Chính Trị tiếp thu các tín hiệu xã hội và kịp thời điều chỉnh các sách lược, chiến lược, chính sách cho phù hợp với sự phát triển của xã hội ...

5-   Văn Nghệ Sĩ - Trí Thức Việt Nam ngày nay dường như vẫn còn đang chìm đắm trong những nỗi buồn "muôn năm cũ", "sầu cổ độ", "vạn cổ sầu", ... của thời "tiền chiến", vẫn cứ quanh quẩn lê la ở những "phố nhỏ, ngõ nhỏ ...", "quán cóc liêu xiêu ..." ..., để rồi mỏi mòn với "thương nhớ đồng quê", lay lắt với "nỗi buồn phố thị" ... vv ...

    Cho đến nay, người Việt Nam vẫn cứ hình dung "nghệ sĩ" là phải "lãng mạn", "bay bướm", "đi mây về gió" ... Họ ngạc nhiên khi thấy Văn Nghệ Sĩ - Trí Thức quan tâm, nhạy cảm với chính trị, thời cuộc ... Và chính quyền thì dường như lo sợ, và theo dõi, không phải để tiếp thu, học hỏi, mà để ngăn ngừa, khủng bố ...


    Năm điều trên cho thấy Xã Hội Việt Nam vẫn còn cách xa "Cánh Cửa Văn Minh" lắm ... ! Chưa biết đến ngày nào, giới Văn Nghệ Sĩ - Trí Thức Việt Nam mới có thể đưa được Xã Hội Việt Nam đến bên bậc thềm của nó ... !? ...

   Hởi những ai đang tự xem mình là "Văn Nghệ Sĩ - Trí Thức" ..., các vị nghĩ gì ... !? ...

   QUỐC GIA HƯNG VONG, THẤT PHU HỮU TRÁCH !

   TƯỚC HỮU NGŨ, SĨ CƯ KỲ LIỆT
   DÂN HỮU TỨ, SĨ VI CHI TIÊN.

Nguồn: https://www.facebook.com/canh.le.353

Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013

CÙNG HOÀNG NHUẬN CẦM CHỌC CƯỜI THƠ TRẦN GIA THÁI


Trần Mạnh Hảo
Trên báo Văn Nghệ số 8 (2767) thứ bảy ngày 23-02-2013, có in bài “ Những cơn mưa thơ” của nhà thơ kiêm diễn viên điện ảnh Hoàng Nhuận Cầm khen ngợi tới tận mây xanh tập thơ “ Mưa không mùa” ( NXB Hội Nhà Văn 2012) của Trần Gia Thái . Theo website Hội Nhà báo Việt Nam giới thiệu ông nhà thơ này với các chức vụ khá to :

Đồng chí Trần Gia Thái
Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam
Chủ tịch Hội Nhà báo thành phố Hà Nội
Tổng Giám đốc, Tổng biên tập Đài PT-TH Hà Nội
Trong cuộc đời mình, Trần Gia Thái nổi tiếng nhất là vụ ông dùng Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội để chiếu một bộ phim phóng sự dài nhằm bôi nhọ, vu cáo, bịa đặt bao chuyện xấu xa  cho những những người dân yêu nước biểu tình chống bọn xâm lược Trung Quốc. Ông này bị những người biểu tình kiện ra tòa; nhưng ông ta được nhà nước thân Trung Quốc bảo vệ. Những kẻ sai Trần Gia Thái làm một bộ phim phải nói là đê tiện kia quyết không để người nào dám đụng đến lông chân một  kẻ có công bịa chuyện vu cáo những người yêu nước chân chính, cốt để buộc tội họ, nhằm tống họ vào tù.
Trong giới viết lách đồn nhau : ai muốn lên đài truyền hình Hà Nội cứ đem thơ Trần Gia Thái ra khen vống lên dù thơ dở tệ. Từ ông Hữu Thỉnh đến anh cóc ké trong làng văn nghệ đều thi nhau ca ngợi những tập thơ dở của Trần Gia Thái. Nhà thơ kiêm kép điện ảnh Hoàng Nhuận Cầm hôm nay bỗng đè ngửa tập thơ “ Mưa không mùa” của Trần Gia Thái ra khen không biết ngượng.
Trước hết, Hoàng Nhuận Cầm dùng kiểu nói gian ( nói dối – gian dối chủ nghĩa) để bốc thơm tập thơ không được …thơm cho lắm là tập thơ trước đây của ông Gia Thái : “Sau dư âm khá tốt đẹp của đồng nghiệp và bạn bè dành cho “Lời Nguyện Cầu Trước Lửa””. Xin qúy vị vào công cụ tìm kiếm đánh mấy chữ : “phê bình thơ Trần Gia Thái”, hoặc : “lên án Trần Gia Thái tổng giám đốc phát thanh và truyền hình Hà Nội” sẽ nhận được hàng trăm bài chê thơ ông này cực dở, chê nhân cách ông này xấu xa, một người không đàng hoàng tử tế…Hoàng Nhuận Cầm khen nịnh kiểu gian dối bất cần sự thật như vậy có xứng đáng là người cầm bút chân chính hay không ?
Xin dẫn nguyên đoạn Hoàng Nhuận Cầm bốc thơm một thứ thơ khó ngửi của Trần Gia Thái :
“Sau dư âm khá tốt đẹp của đồng nghiệp và bạn bè dành cho “Lời Nguyện Cầu Trước Lửa” – “Mưa Không Mùa” là tập thơ thứ hai của thi sĩ Trần Gia Thái. Cảm nhận đầu tiên của tôi là đã có một sự “đối trọng” giữa hai tập thơ này – một sự đối trọng hết sức tương thích để tạo nên một “xung lực mới” cho thơ của anh. Đó là sự đối trọng giữa lửa và nước, giữa chất thế sự và chất trữ tình, giữa giọng đắng chát và giọng ngọt ngào. Trần Gia Thái vẫn duy trì và vẫn giữ được sự “Ngơ ngác toàn thân”” khi đứng trước trang giấy trắng.
“Có nhiều lúc./Không biết đang làm gì./ Không muốn làm việc gì./ Định đi tìm cái gì./ Không tài nào nghĩ nổi./ Đành gọi là quên (Khoảng vắng)”
Cái mà nhà thơ tìm không thấy hoặc chưa thấy – nên “đành gọi là quên” – nhưng nếu hỏi nhà thơ quên gì thì như nhà thơ đã thú nhận cũng không nhớ nổi? Và cái điều trắc ẩn đó, chúng ta gọi là Thơ. Nó kỳ lạ và bí ẩn như tình yêu, tìm không thấy, gọi không đến – nhưng khi đã đến thì đuổi cũng không đi. ( hết trích)

Trời ơi, cái “ ngữ” này của Trần Gia Thái mà Hoàng Nhuận Cầm dám gọi là thơ ư ? Lại là thơ hay kinh dị phải đưa cả mùi thiền giọng triết vào bình như trên mới ác liệt chứ :

“Có nhiều lúc
Không biết đang làm gì.
Không muốn làm việc gì
 Định đi tìm cái gì
Không tài nào nghĩ nổi
 Đành gọi là quên”
( thơ Trần Gia Thái)

Trần Gia Thái viết những câu rất “thần kinh” thế này thì thơ con cóc phải gọi bằng cu nặng ( cụ ).

Nhà thơ trẻ Thanh Tre ( vốn nối dõi “thi pháp gãi háng Thanh Thảo”) nhân cái gọi là thơ chết cười trên của Trần Gia Thái, bèn nhại trường “thơ ngơ ngác toàn thân” này, gửi đến Trần Mạnh Hảo sáu câu ( vọng cổ ?) còn ấm ớ hơn thơ Trần Gia Thái trên, tất nhiên là mô phỏng thơ ông Thái, rồi nhờ kẻ viết bài này bình chơi :

“Có dịp thức mà ngủ
Không hiểu mình thế nào
Không biết đi đường nào
Định tìm một con nào
Có trời biết tên nó
Đành gọi là chiêm bao”
( thơ của thi sĩ Thanh Tre)
Trần Mạnh Hảo xin mượn phép “ phê bình toàn thân ngơ ngác” của Hoàng Nhuận Cầm khi bình thơ ú ớ Trần Gia Thái trên mà bình thứ thơ vô dục mới tinh của thi sĩ Thanh Tre :
“Nếu Hoàng Nhuận Cầm nói thơ của Trần Gia Thái “ ngơ ngác toàn thân” thì thơ của thi sĩ Thanh Tre vừa dẫn còn vượt lên cả sự ngơ ngác là u minh toàn phần, ấm ớ toàn diện, hâm hâm cả hồn lẫn xác, một trạng thái lên đồng, vong thân triệt để, tha hóa khôn cùng, xứng đáng với bút pháp tân kỳ có thể gọi bằng tên mới “ hết hồn ngáp ngáp”. Gã nhà thơ nơi Trần Gia Thái còn mang ý thức như mang một con đom đóm trong người, còn biết mình đang nghĩ “Không tài nào nghĩ nổi”…
Nhưng với thi sĩ mở đường cho các thi pháp tân kỳ Việt Nam Thanh Tre, bỏ xa thi pháp Tân Con cóc của trường thơ Nguyễn Quang Thiều, bỏ qua thi pháp gãi háng của Thanh Tháo, bỏ qua thi pháp ngơ ngác toàn thân của Trần Gia Thái, Thanh Tre chơi một lối thơ hoàn toàn thoát xác, tháo bỏ y phục ý thức hay tư duy ném vào sọt rác.
Con người trong sáu câu trên của Thanh Tre đi ngật ngưỡng trên đời hoàn toàn không biết mình thức hay ngủ, không biết mình là ai, mình đang đi đâu cũng cóc có biết, muốn tìm một con nào để thử tồn tại chút chút mà cóc nhớ tên nó…Nghĩa là con người ấy phi hiện thực, phi thời gian, phi không gian, một thế giới lấy chiêm bao làm vũ trụ, làm mái nhà, sống mà như con ma, sống mà như cái bóng. Cõi ấy mới đích thực thơ, thơ chí tôn chí thánh, thơ ma ma Phật Phật. Mây bay trên bầu trời so với không gian thơ Thanh Tre vô cùng tận kia chỉ đáng gọi là sâu kiến. Đành phải gọi bọn mây trắng kia đến mà mắng chúng rằng: chúng mày đang bay trên trời hay đang bay trong một cái hũ  con con ?
Đọc sáu câu tuyệt tác trên của thi sĩ Thanh Tre, ta thấy xuất hiện một thi pháp mới trên thi đàn Việt Nam : ‘thi pháp thần kinh”. Hàn Mặc Tử xưa với tập “ Thơ điên” mới chỉ là điên tập sự, giả điên, làm dáng điên – tức là điên một cách có ý thức; nói như ngôn ngữ chính trị thời nay, Hàn Mặc Tử sáng tạo theo một định hướng điên. Còn Thanh Tre, thi sĩ của thời đại tham nhũng, thời đại những con bú dù chính trị, thời đại sự giả dối, đểu cáng  trở thành quốc sách, quốc hồn, quốc tính, quốc doanh, quốc nạn, quốc huy, quốc ca, quốc sắc, quốc túy, quốc khùng, quốc phòng, quốc phạm…thì đã không thèm điên lẻ tẻ mà điên nặng điện, điên mà ngôn ngữ thi ca bừng sáng ánh điện tràn đầy trang giấy với ba tiếng khàn khàn mèo gào : nào ? nào ? nào ? ( hết bình thơ Thanh Tre)
Trong bài đã dẫn, Hoàng Nhuận Cầm tiếp tục bốc thơm thơ Trần Gia Thái một cách vô lối, vô phương, thơ đã sến mà lời bình còn sến hết mức  :
“Ôi câu thơ rút ruột./ Rỏ máu người làm thơ. / Viết ra thì tự đọc. / Ai tri âm bây giờ. / Viết ra thì tự đọc. / Người cần nghe không nghe. / Mặc nháo nhào tranh giật. / Thơ cứ rơi não nề. (Đã mang lấy nghiệp).”
Những câu thơ rút ruột, những câu thơ rỏ máu, những câu thơ không người nghe, những câu thơ tự đọc cho mình cứ âm thầm rơi xuống bốn mươi hai bài thơ để làm nên tập “Mưa Không Mùa”. Đây là những giọt mưa không rơi theo quy luật tự nhiên – những giọt mưa rơi xuống theo quy luật của tình cảm – để tạo nên những Cơn Mưa Thơ trả nợ cho đời – những cơn mưa khô mà thấm đẫm tình người. ( hết trích Hoàng Nhuận Cầm - HNC)
Những câu nói dễ dãi, tầm thường sáo rỗng trên mà Trần Gia Thái gọi nhầm là thơ đã được Hoàng Nhuận Cầm bình như bình những câu tuyệt tác. Thơ và người bình thơ dường như cùng dắt tay nhau đi vào con đường thảm hại bức tử thi ca, con đường trao đổi làm ăn : ông bốc thơm thơ thối của tôi, tôi sẽ dành cho ông mấy cái kịch bản dựng phim hoặc mấy vai diễn xuất …
Thơ Trần Gia Thái và người bình thơ kiểu Hoàng Nhuận Cầm như trên cứ đôi lứa xứng đôi, dắt nhau đi đưa đám thi ca, tham gia chôn cất nền thơ văn minh họa, một nền văn chương con hát, thi ca thằng hề mua vua cho đám cai đầu dài chính trị coi văn nghệ chỉ là những tên đầy tớ mua vui.,.
Sài Gòn ngày 16-3-2013
Trần Mạnh Hảo
GHI CHÚ CỦA TRẦN MẠNH HẢO :
Xin qúy bạn đọc hãy vào công cụ tìm kiếm http://google.com đọc tiếp ba bài phê bình thơ Trần Gia Thái sau :

“Đọc tập thơ của Trần Gia Thái, buồn về hội chứng “méo mó hình hài vẹo xiêu nhân cách” của nền văn học VN hôm nay”


“THƠ TRẦN GIA THÁI CƯỜNG TRÁNG THẾ NÀO TRONG MẮT HỮU THỈNH?”


Khi nhà thơ Hữu Thỉnh hết lời ca ngợi những câu thơ tẻ nhạt của Trần Gia Thái


Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

PHÊ BÌNH KIỂU TẤU HÀI TRÊN BÁO VĂN NGHỆ


 Trần Mạnh Hảo

Trên báo Văn Nghệ hai số 7 và 8 / 2013 có in bốn bài viết ca ngợi ba tập thơ được giải và một tập phê bình được giải văn học của Hội nhà văn Việt Nam 2012 : “ QUAY VỀ LỜI NỀN TẢNG – Đọc “trường ca chân đất” của Thanh Thảo” của Nguyễn Chí Hoan, “Phạm Đương người đi trên dây” của Đặng Huy Giang, “Trần Quang Quý và sự ám ảnh hiện hữu “ của Mai Vũ và “ Mấy suy nghĩ cùng “ Đa cực và điểm đến” viết về tập phê bình được giải của Nguyên An…

Nếu thày giao chấm điểm văn là bạn đọc ra bốn đề văn như sau :

“Em hãy phân tích và chứng minh “ trường ca chân đất” của Thanh Thảo hay hay dở ? Vì sao hay, vì sao dở”
Cũng đề này được ra cho ba tập tiếp : “Giờ thứ 25” của Phạm Đương, “ Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy, “ Đa cực và điểm đến” của Văn Chinh

Qua bài viết, tức bài tập làm văn của các tác giả : Nguyễn Chí Hoan, Đặng Huy Giang, Nguyên An và Mai Vũ…không chứng minh được bốn tập này là tập hay, ngược lại nó vô tình ( hay cố ý) đều cho rằng ba tập thơ và một tập phê bình này đều nhàn nhạt, vô bổ, nghĩa là thậm dở.
Nếu các vị này cố chứng minh các tập thơ trên hay thì độc giả là ông thầy chỉ có thể cho các vị điểm ngỗng ( tức 2 điểm).

Xin trích một đoạn trong bài viết của Nguyễn Chí Hoan; ông này đã trích ra đoạn thơ bậy bạ, dở nhất, dễ dãi nhất, tầm phào nhất của “Trường ca chân đất” của Thanh Thảo để khen hết lời thơ Thanh Thảo hay tuyệt như sau :
“Nét riêng trong cái nhìn mà trường ca này khai triển là dựa trên sự nhấn mạnh cái vẻ thô mộc đó, dùng sự nhấn mạnh đó theo kiểu xây dựng các mô-típ trong mỹ nghệ dân gian; chẳng hạn như ở đoạn trích dưới đây.
                         bác Năm Trì tàng tàng tàng
                         bác Năm Trì dân Quảng Ngãi

                         đêm láng lênh bác ngồi gãi háng
                         trăng hạ tuần
                         nhớ lung mung
                         hình như tổ tiên mình có cái chén mẻ
                         gửi đâu đó bên dưới đế tháp Chàm
                         những ngọn tháp chỉ còn trong ký ức
Với nhịp điệu đan xen lối nói vần điệu dân dã tựa như “hát nói” và nhịp thơ tự do, đoạn thơ trên đây dựng lên ba hình ảnh: ông nông dân ngồi, ống quần rộng kéo quá đùi – mảnh trăng hạ tuần (xế/chếch) ngang đầu – nhìn sang ngang hình kỷ hà một ngọn tháp ước lệ làm nền cho hình đậm chiếc bát ăn cơm sứt mẻ; và chi tiết động tác “gãi háng” khiến thấy hình ông nông dân là một ảnh thực bên cụm ước lệ trăng-tháp có điểm nhấn bố cục là cái bát mẻ.
Tư thế và động tác trong hình ảnh này của nhân vật bác Năm Trì chính là điểm bộc lộ sự nhấn mạnh vào tính thô mộc của biểu đạt; và theo truyền thống, hình ảnh và động tác đó, như thể một vai hề gậy, biểu thị thái độ phản biện, phản kháng hay nhẹ nhất cũng là một cái cười mai mỉa, một lời chất vấn hay tự vấn. Và tính chất một mô-típ tạo hình ở đoạn thơ khiến có thể loại bỏ hoặc giới hạn phương diện “tục” trong cái “thô”, hay nói cách khác, là đưa cái “tục” với liều lượng được kiểm soát để biểu hiện sức phản kháng trước đau khổ bất bình, cũng là cái cười biểu thị hy vọng.” ( hết trích)
Nguyễn Chí Hoan đã chọn khổ thơ dễ dãi nhất, tầm phào bậy bạ nhất, dở nhất  của Thanh Thảo để khen lên mây, dùng làm thí dụ cho “thi pháp gãi háng” thành trường thơ của “
Trường ca chân đất”, đôn cái dở nhất thành hay nhất, tục tĩu nhất thành thanh tao nhất…để tha hồ tào lao xích bột, tán nhảm, bình càn, y như một kẻ không bình thường, hoặc một tay tấu hài hạng bét trong làng chọc cười, chọc quê…
Về việc này, vừa qua nhà thơ trẻ Thanh Tre, sau khi đọc bài bình có một không hai của Nguyễn Chí Hoan tâng bốc “Trường ca chân đất” của Thanh Thảo, đã gửi cho kẻ viết bài này đoạn thơ mô phỏng thơ “ gãi háng” trên mà Thanh Tre thi sĩ cho là mình đã vượt qua thơ Thanh Thảo; xin trích thơ của tác giả Thanh Tre :
“Cô Sáu He cà lăm cà lăm cà lăm
Cô Sáu He quê Rạch Giá
Khuya trăng lu cô ngồi gãi mu
Sao Hôm mắc cỡ tắt ngúm
Cô vừa gãi mu vừa nhớ con chim cu
Thương bà cố nội cô có cái váy tổ đỉa
Chiếc váy còn phơ phất chiêm bao”
Trần Mạnh Hảo tôi xin mô phỏng lối bình thơ tấu hài của Nguyễn Chí Hoan mà bình đoạn thơ diễm lệ của thi sĩ Thanh Tre như sau :
“Từ “thi pháp gãi háng” tả thực của thi sĩ Thanh Thảo, thi sĩ Thanh Tre đã vượt qua cái bóng tiền bối mà nâng thơ lên thành “thi pháp gãi mu” hư ảo vô cùng, hàm súc dư ba. “ Mu” của cô Sáu He so với “Háng của bác Năm Trì” sâu sắc và đa ngữ nghĩa hơn nhiều. Háng, nói cho cùng chỉ có nghĩa đen mà thiếu nghĩa bóng, chỉ có xác mà thiếu cái hồn. Háng của bác Năm Trì chợt biến thành chân tường của thi ca. Nhưng hình ảnh “ Mu của cô Sáu He” thì vừa có không gian vừa có cả thời gian. Từ hình ảnh “ Mu” thơ được mở ra không chỉ ba chiều ( ba góc = “chành ra ba góc dư còn thiếu- HXH”) , bốn chiều mà đa chiều, vô chiều khiến hồn người đọc cũng được hút vào thiên đường khoái lạc mà “mu” chính là cửa vào cực khoái thi ca. Hỏi có ai không bước ra từ cửa của cái mu này…? Mu là hình tượng cong đầy múp míp vòm trời. Các chân trời, các đụn cát, các vòm đồi, các đỉnh núi đều mô phỏng sự cong nẩy của mu cô Sáu He mà mơn mởn “tùm hum nóc” như thơ Hồ Xuân Hương…
Cám ơn thi sĩ Thanh Tre đã mang đến cho thi ca một “ cái mu” thi pháp làm hầm trú ẩn cho thi ca muôn đời thập thò cua cáy nhân sinh. “Mu” trở thành vương miện của vương quốc sex mê ly kiếp người; “mu” chợt được thi sĩ Thanh Tre nâng lên thành triều thiên của thi ca tưởng thô tục mà cao sang vô tận. “ Mu” không chỉ là thi pháp thơ mà còn là phạm trù thơ, hang hốc thơ, tiên thiên thơ, qủy cốc thơ…
Xin cám ơn “thi pháp gãi háng” của thi sĩ Thanh Thảo đã gợi cho thi sĩ Thanh Tre viết được câu thơ vĩ đại : “Khuya trăng lu cô ngồi gãi mu”. Thơ đang bay vùn vụt chợt đụng vào “háng”thì thơ dù đã học được phép xuyên tường cũng phải dừng lại, bởi vì sau háng là xương cứng như sắt mà thơ không thể gặm. Nhưng sau “ Mu” thì quả là còn vô cùng thế giới, là thiên đường của thi ca, nơi thi ca lên đỉnh Vu Sơn khoái lạc chợt hét lên, rú lên niềm thú tính con người…Thơ, nói cho cùng phải đạt đến mức sướng muốn chết….”
Cứ đà bình kiểu Nguyễn Chí Hoan này, có thể xuất hiện một luận án tiến sĩ về thi pháp thơ ca : Thơ trong quá trình tiến hóa  từ “thi pháp gãi háng” tả thực sang “thi pháp gãi mu” hư ảo…Nguyễn Chí Hoan, hiện là trưởng ban lý luận phê bình báo Văn Nghệ nếu làm luận án tiến sĩ về đề tài này chắc chắn sẽ được hội đồng giáo sư phản biện vỗ tay vang trời. Trần Mạnh Hảo xin biếu không ý tưởng này cho ông Hoan, chỉ xin một li café nâu nhuận bút mà thôi…
Chúng tôi xin trích một đoạn trong bài : “Phạm Đương người đi trên dây” của nhà thơ Đặng Huy Giang, bốc thơm tập thơ “ Giờ thứ 25” (tên tập thơ ăn cắp tên của cuốn tiểu thuyết lừng danh thế giới của  văn hào C. Gheorghiu) như sau :

“Ở đâu đó, ta bắt gặp một lối diễn đạt mạnh bạo: Từng cơn gió dại chưa tiêm phòng/ phập vào anh những dấu răng chí mạng (Gió dại); một cách diễn đạt cô đọng như châm ngôn: Không một nhà tù nào có thể nhốt được khát vọng/ không một xiềng xích nào có thể giam được cái ác (Hạt thóc và bom); một cách nói rất khác: Tôi bị chiều luộc chín từng khúc/ bằng chiếc nồi áp suất nhớ nhung (Khuya 1), tôi dát mỏng sự tử tế hiếm muộn của mình/ liền gặp ngay một cơn thịnh nộ/ đừng nhân danh lòng tốt, bạn ạ và đáng nói hơn là một cách nhìn khác.
Tiêu biểu cho cách nhìn khác được bộc lộ sinh động qua Lính đất Mũi. Đây là bài thơ độc đáo, mang nặng chất phát hiện của Phạm Đương:

Từ độ cao mười mét
những chiếc dù bung ra
rồi bám vào đất mà thở
rồi bám vào biển thành nhà

ở đây không cần khẩu lệnh
vẫn hàng ngang hàng dọc thẳng đều
cứ thấy bùn là tiến
nhìn triều xuống mà theo
giăng mắc ngang chiều những
sư đoàn binh đoàn
âm thầm cắm rễ
giăng mắc ngang trời nơi cửa sông
câu ca mở cõi

khoác trên vai những người lính nơi này
bộ quân phục phù sa
mang về từ châu thổ

phía trước mặt là bước chân mở đất
phía sau lưng là đôi tay giữ nước
trĩu nặng hai vai đất đai Tổ quốc

những - người – lính - đước.

Có lẽ, chưa có người làm thơ nào viết về những cây đước khái quát và khác lạ đến vậy.
Tất nhiên, Phạm Đương không chỉ có Lính đất Mũi mà còn có Biên tập, Tạp âm, Những mảnh vỡ, Trong đáy cốc, Gió dại, Hạt thóc và bom… nữa.
Đây là những câu ấn tượng trong Hạt thóc và bom:
Chúng ta cười vui chúng ta mếu máo
chỗ này tung hô chỗ kia lếu láo
chúng ta đang đi trên những chiếc dây
căng qua đời sống
tìm sự thăng bằng giữa hạt thóc và bom.
( hết trích)
Những câu thơ Phạm Đương ( nhại thơ TÂN CON CÓC lẩn thẩn, lảm nhảm của Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều) trên đây do Đăng Huy Giang trích ra khen đều là những câu đại ngôn, sáo mới, sến, dễ dãi, thậm chí nhảm nhí, tầm phào há không phải là phê bình tấu hài hay sao ?
Trần Mạnh Hảo xin mượn mấy câu thơ dễ dãi, đại ngôn và khiên cưỡng lại buồn cười của Phạm Đương do Đặng Huy Giang khen hay để giễu nhại cho đỡ tẻ :
“Từng cơn gió dại chưa tiêm phòng
 phập vào anh những dấu răng chí mạng” ( P Đ)
“ Từng tên ác dâm chưa bị hoạn
Phập vào em những dấu chim chết ngất” ( thơ nhái)
“Tôi bị chiều luộc chín từng khúc
bằng chiếc nồi áp suất nhớ nhung” ( P Đ)
“Tôi bị đêm rán thành mỡ
Bằng chiếc chảo em yêu “ ( thơ nhái)
“Không một nhà tù nào có thể nhốt được khát vọng
 không một xiềng xích nào có thể giam được cái ác” ( P Đ)
“Không một bướm em nào nhốt được anh chim
Không một cái chai nào có thể nhốt được rượu tình ( thơ nhái)
Mai Vũ trong bài : “Trần Quang Quý và sự ám ảnh hiện hữu” ca ngợi tập thơ “Màu tự do của đất” lên mây bằng trích ra toàn thứ thơ dễ dãi, sáo rỗng, cùn mòn, nói lấy được, chẳng cần hàm súc, dư ba, chẳng cần hình tượng, hình ảnh, biểu tượng, rất dở, cứ tràn ra vô tội vạ như nước cống :
“Ngoặc đơn tác giả viết: “Nỗi buồn trong cấu trúc cô đơn/ chiếc ngoặc mong manh gông cùm phận chữ/ những con chữ một đời vai phụ/ những con chữ chỉ giản dị làm phu giải nghĩa/ cũng một đời thèm/ tháo ngoặc/ Tự Do!”.
“Tôi đọc trên đất những bước đi ngắn, những bước đi dài/những khi bước thấp, những khi bước cao/bài học ban đầu/thuở còn lẫm chẫm/trang sách nhân gian đất bày vô tận/…Một đời khát vọng/tìm gió/theo mây/mới hay mọi điều học ngay từ đất” (Từ đất)
Ánh sáng của một ngày tự thức/ ánh sáng len lỏi vào ngõ quen, vào ngóc ngách vô cảm/ đánh thức bản nguyên/ cởi nút thắt bóng tối nằm hoang muội trong bức tường câm thức/ Ánh sáng dẫn tôi bò qua những con dốc nhịp thở/ gõ cửa trái tim cảm hứng/ bánh xe trật tự khởi quay/ và bật dậy trong tôi những lãng quên biền biệt chân trời… ánh sáng khoan thoai trong khung cửa ngộ thức/ hình như tôi vừa tự mở khóa mình”.
“Tôi đọc trên đất những bước đi ngắn, những bước đi dài/những khi bước thấp, những khi bước cao/bài học ban đầu/thuở còn lẫm chẫm/trang sách nhân gian đất bày vô tận/…Một đời khát vọng/tìm gió/theo mây/mới hay mọi điều học ngay từ đất”
Các nàng liếc nhìn tôi bằng sâu thẳm bầu trời thị giác/ bằng cả những phía sau cong mi… Tôi đi qua ngàn năm để đỏng đảnh một chiều váy ngắn… Sông hổn hển kể những ngày nàng thôn nữ ra bến quê giặt yếm/ khỏa những nụ cười duyên/ giặt cái dịu dàng, giặt phồn thực/ các nàng giặt tôi, kì cọ tôi bằng chiều quê cổ điển/ bằng cổ tích Ba Vì, bằng cả bây giờ quần jean, tóc hấp
: “Trong mắt rắn, dĩ nhiên rồi ta cũng loài rắn/ngôn ngữ của trườn bò…Trong mắt bầy khuyển kia, làm sao khác ta cũng thành đồng loại/ những cơn tru hoang (tiếng người hóa dại)/ ngày thấp thỏm quạ kêu, đêm chập chờn cú rúc/ những con mắt gài quanh bờ giậu/ lách nhách cắn bóng đêm hay tự sủa phận mình/ có cái chết trong bầm rập vết răng đồng loại/ có bước chân côi cút lẻ bầy” (Đồng loại)”
Mai Vũ đưa thơ dở của Trần Quang Qúy ra ca ngợi lại chẳng phải là phê bình tấu hài hay sao ?
Nhà phê bình Hoài Thanh đã dặn hậu thế đại để như sau : đọc bài phê bình thơ mà thấy trích ra toàn thơ dở để khen lên mây, thì bài ấy không có giá trị gì cả. Ta nên đọc các câu trích trước, rằng thơ trích ra khen mà hay mới đọc, còn trích toàn thơ dở ra khen thì nên ném bài bình thơ ấy vào sọt rác.
Nguyên An trong bài viết : “Mấy suy nghĩ cùng “Đa cực và điểm đến” khen cuốn phê bình được giải của Văn Chinh hết lời mà không hề chứng minh. Nguyên An chưa có đủ trình độ phân biệt được đâu là văn báo chí đâu là văn phê bình văn học nên mới viết lung tung như vậy. Cuốn sách này của Văn Chinh dù viết về đề tài văn học nhưng chỉ là những bài điểm báo, điểm sách thuộc thể loại báo chí chứ chưa thể gọi là phê bình văn học được.
Nguyên An dành cả bài viết dài để khen con vịt giống con thiên nga thì không phải là phê bình tấu hài thì còn là gì nữa…
Hi vọng, báo Văn Nghệ nên tiếp tục in loại phê bình tấu hài để giải khuây thiên hạ; đang buồn ngủ lại gặp chiếu manh mới khoái chí làm sao .,.

Sài Gòn ngày 14-3-2012
Trần Mạnh Hảo

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG VĨNH GỬI THƯ CHO TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG



Thư ngỏ 

Kính gửi: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng 

Tổng bí thư đã đúng khi trong Nghị quyết Trung ương IV nhìn thẳng vào sự thật, đã nêu “Bộ phận không nhỏ Đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Bộ phận không nhỏ nghĩa là khá nhiều, mà phần lớn là những Đảng viên có chức có quyền, kể cả ở cấp cao, như thế cũng có nghĩa là Đảng cũng suy thoái. Cùng với sự sa sút nghiêm trọng về kinh tế xã hội làm cho đời sống đại đa số nhân dân khó khăn, chật vật, để cho Trung Quốc hoành hành thao túng, Đảng đã tự đánh mất lòng tin vào vai trò lãnh đạo của chính mình. Đâu còn thời kỳ huy hoàng, quang vinh như thời kỳ cách mạng tháng 8 và 2 cuộc kháng chiến vì độc lập thống nhất thắng lợi, nhân dân tự nguyện theo sự lãnh đạo của Đảng, Đảng vẫn lãnh đạo được nhân dân mà không có điều nào trong Hiến Pháp ghi quyền Đảng được lãnh đạo. 



Nhưng Tổng bí thư đã sai khi phát biểu ở Vĩnh Phúc, đồng thời tự mâu thuẫn với mình. Quốc hội cũng như Tổng bí thư đều kêu gọi nhân dân góp ý kiến vào sửa đổi Hiến Pháp năm 1992. Đã là đông đảo người góp ý kiến, thì ý kiến rất đa dạng, có người tán thành điều này, có người muốn sửa đổi điều kia, có người đồng ý với dự thảo, có người có ý kiến khác với dự thảo, đó là điều bình thường, sao Tổng bí thư lại chụp cho những người đó là “suy thoái” lại còn yêu cầu phải “xử lý” (nghĩa là đàn áp hoặc trả thù như đối với Nguyễn Đắc Kiên). Nếu chỉ cho phép góp ý kiến chỉ được đồng ý với dự thảo của Ủy ban Soạn thảo… thì nêu ra lấy ý kiến của nhân dân làm gì cho mọi người thấy là “dân chủ hình thức, giả dối”. Còn chỉ đạo “phải xử lý” thì xử lý sao được khoảng trên 6.000 người đã ký vào “Kiến nghị 72” trong đó có nhiều nhà khoa học, trí thức có tên tuổi cả trong nước và trên quốc tế, các thương binh đã hy sinh một phần cơ thể cho đất nước, các lão thành cách mạng đã bị tra tấn, tù đầy và đã cả đời phục vụ Tổ quốc?!  

Nhân đây, tôi nói thêm là tôi đề nghị sửa điều 70 trong dự thảo: “lực lượng vụ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản” thành câu “lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc Việt Nam”, điều đó không phải là “phi chính trị hóa” quân đội. Tôi nghĩ rằng quân đội ta sinh ra chủ yếu là để chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam dù là Đảng lãnh đạo, cũng là một bộ phận trong Tổ quốc và trong nhân dân Việt Nam, lực lượng vũ trang bảo vệ được Tổ quốc thì cũng bảo vệ được Đảng Cộng sản, nếu nước mất thì Đảng cũng không còn, cần gì Đảng phải giữ quân đội làm của riêng của mình.

Năm 1944 khi còn ở trong rừng Việt Bắc, Cụ Nguyễn Ái Quốc (lúc ấy nhân dân thường gọi là “Ông Ké”, Cụ chưa lấy tên là Hồ Chí Minh) lập ra “Đội võ trang tuyên truyền giải phóng quân”, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Người không nhân danh Đảng Cộng sản. Và khi đã thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người nói “quân đội trung với nước, hiếu với dân”, sau này phát triển thành câu hoàn chỉnh trong các văn kiện và báo chí là “Quân đội ta từ nhân dân mà ra, trung với nước hiếu với dân, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Tôi đọc trong tuyển tập Hồ Chí Minh không thấy chỗ nào Người nói là “quân đội trung với Đảng…” như mấy ông phát biểu trên ti vi bịa ra nói bừa và còn nói bừa là “quân đội do Đảng Cộng sản lập ra…” hòng vào hùa giữ cho được câu “lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” ghi trong Hiến Pháp.

Hà Nội, 7/3/2013.  
Nguyễn Trọng Vĩnh
Nguồn: xuandienhannom.blogspot

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

Ý THỨC HỆ VÀ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP


7/3/2013

Để trả lời câu hỏi: Tại sao đảng cộng sản Việt nam vẫn kiên quyết “cố thủ” điều 4 hiến pháp, nhiều nhà nghiên cứu lý luận đã có những bài viết phân tích về vấn đề này. Ở đây tôi chỉ muốn đưa ra vài suy nghĩ nhỏ về việc đảng đang cố bấu víu vào ý thức hệ cộng sản (Marx) ở Việt nam như chiếc phao cứu sinh cho thể chế độc tài (thực chất là quyền lợi phe nhóm) mà hy sinh quyền lợi dân tộc.

Amartya Kumar Sen là nhà kinh tế học, triết gia Ấn Độ. Năm 1998, ông giành được giải Nobel kinh tế (tức giải thưởng về khoa học kinh tế được trao bởi Ngân hàng Thụy Điển) bởi những đóng góp về: kinh tế phúc lợi, công trình về sự khan hiếm các nguồn lực, nguyên lý phát triển con người, những cơ chế nằm bên dưới sự nghèo nàn và lý thuyết về chủ nghĩa tự do chính trị.
Khi quan sát hiện tượng chậm tiến, nghèo đói và xã hội vô chính phủ ở những nước Á, Phi và Nam Mỹ trong vòng nửa thế kỷ qua, ông Amartya Sen đã thấy rằng hễ nơi nào có độc tài là nơi đó có chậm tiến. Qua công trình nghiên cứu này, ông đã đi đến kết luận là có sự liên hệ ( corrélation) giữa độc tài và chậm tiến. Ông tuyên bố : “Qua nửa thế kỷ qua, người ta thấy dân tộc các nước Á châu, Phi châu, Nam mỹ chậm tiến ít bị ảnh hưởng bởi thiên tai và các tác động khách quan mà nguyên nhân chính là do những chính quyền độc tài bản sứ.” Công trình nghiên cứu này đã đưa ông đến giải Nobel kinh tế năm 1998.
Không ai phủ nhận Việt nam là một quốc gia nghèo. Thậm chí còn là một quốc gia đứng trong số những nước nghèo nhất thế giới. So sánh với các nước khác có điều kiện địa chính trị, hoàn cảnh lịch sử như Việt nam, nước ta là quốc gia chậm tiến. Có thể nói rằng sự chậm tiến này liên quan hữu cơ, nếu không nói là yếu tố quyết định cho sự cho sự chậm tiến, kém phát triển của Việt nam chính là sự  vận hành của chế độ hiện hữu: một thể chế độc tài theo ý thức hệ cộng sản.
Thế nào là “Ý thức hệ”? Theo tôi hiểu ý thức hệ là tư tưởng có hệ thống được tác tạo bởi một (hoặc) nhóm người được xã hội tự giác hoặc bị cưỡng bức (thông qua tuyên truyền) thừa nhận, trở thành một trào lưu, ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. 
Việt nam chưa bao giờ có một hệ tư tưởng của mình. Ngay cả Trung quốc hoặc Liên xô trước đây cũng không có một hệ tư tưởng mà thực ra họ đã chọn lựa đi  theo ý thức hệ của Marx, một hệ tư tưởng được thai nghén từ một nước tư bản châu Âu, lớn lên ở một nước phong kiến quân chủ nửa Tây nửa Đông là nước Nga Sa hoàng, biến thể ở một nước phong kiến phương đông hoang dã là Trung quốc và trở nên già cỗi, quặt quẹo ở Việt nam, Cu ba, Bắc Triều Tiên.
Nếu nhìn lại lịch sử Việt nam từ khi thành lập đảng cộng sản đến nay ta thấy có ba giai đoạn của sự du nhập, phát triển ý thức hệ cộng sản ở Việt nam. Từ năm 1930 đến năm 1945, các lãnh tụ đảng CS Việt nam nhiệt thành với ý thức hệ Marx. Từ năm 1945 đến năm 1990, họ bị (được) ý thức hệ Marx  cưỡng dâm thông qua các bàn tay lớn từ Liên xô, Trung quốc. Từ năm 1990 đến nay, ý thức hệ Marx chỉ còn tồn tại trong các văn bản của đảng, nhà nước trên danh nghĩa còn trong thực tế ý thức hệ hoang tưởng này đã trở thành tấm áo tả tơi trước cơn bão thông tin toàn cầu.
Nói như vậy không có nghĩa ý thức hệ Marx là thứ vứt đi mà nó vẫn còn rất quý giá bởi trong hoàn cảnh của vài nước XHCN còn sót lại trên thế giới, nó là chiếc pháo cứu sinh cho giới cầm quyền bám víu khi con tàu “Titanic thể chế” đã đâm vào núi băng sự thật.
Đứng trước nguy cơ bắc thuộc trước mắt, đảng cộng sản Việt nam không hề lưu tâm trước chủ quyền đất nước bị xâm phạm mà chỉ lo giữ thể chế. Chẳng thế mà một ông tướng của quân đội “nhân dân” Việt nam, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc Phòng khẳng định tính cách tương đồng của Hà Nội và Bắc Kinh cùng chung một ý thức hệ Cộng sản sẽ giúp cho sự nghiệp xây dựng CNXH dễ dàng hơn.
Thứ trưởng Vịnh công nhận rằng “Nền tảng di sản đó chi phối cách ứng xử của hai nước. Một trong những đặc trưng của ý thức hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu có được một người bạn XHCN rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.”
Trên thực tế, đảng CS Trung Quốc đâu có còn theo đuổi ý thức hệ Marx trên con đường CNXH. Vậy mà Việt Nam lúc nào cũng xác tín “kiên định chủ nghĩa Marx-Lê”.  Chúng ta đã biết, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh một nhà ngoại giao lão thành từng giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Bắc Kinh cho hay:
“Truyền thống ông cha đến giờ thì thời kỳ nào Trung Quốc cũng xâm lược Việt Nam thì làm gì có truyền thống hữu nghị? Chẳng qua là bịa ra thôi. Hai nữa là cái Ý thức hệ tương đồng cũng không đúng bởi vì từ khi ông Đặng Tiểu Bình ông ấy phát biểu câu “mèo trắng mèo đen mèo nào bắt được chuột thì là mèo tốt” thế nghĩa là ông ta đã đi theo con đường tư bản rồi, đã bỏ con đường Xã hội chủ nghĩa mặc dầu ông ấy vẫn nói XHCN mang mầu sắc Trung Quốc.
Trong thực tế ông ta đã đi con đường tư bản chủ nghĩa và hiện giờ xã hội Trung Quốc là một xã hội tư bản, phát triển chưa đầy đủ chứ không phải là xã hội chủ nghĩa, không tìm thấy cái gì gọi là XHCN. Tôi cho ông Nguyễn Chí Vịnh nói thế là không đúng, là cố nói lấy được mà thôi”.
Sự thật là
Người ta nói ở VN chủ nghĩa cộng sản chỉ là chủ nghĩa phong kiến thời hiện đại, cha truyền con nối. Con vua thì được làm vua, không có bất kỳ cơ hội nào cho nhừng ai không phải là đảng viên cộng sản mà muốn làm lãnh đạo! Ở VN các vị trí cao trong chính phủ đã được sắp xếp chia chác bởi những người chủ chốt trong đảng, là sự thoả hiệp giữa các lãnh tụ để bảo đảm cho con cháu họ thừa kế.
Trước đây, ông Nông Đức Mạnh đưa conn trai Nông quốc Tuấn vào TƯ với chức Bí thư tỉnh uỷ. Ông Lê Đức Anh thu xếp để con trai Lê Mạnh Hà làm Phó chủ tịch UBND TPHCM, con dâu là Nguyễn Thị Doan (hỗn danh là  Doan chém gió) làm Phó chủ tịch nước. Ông Nguyễn Tấn Dũng có con là Nguyễn Thanh Nghị làm Thứ trưởng Bộ Xây dựng làm bước đệm cho chức  Bộ trưởng sau này và con trai thứ Nguyền Minh Triết mới vào Trung ương Đoàn…vân vân.
Vì vậy nên có mất nước, đảng vẫn phải bám lấy điều 4 Hiến pháp để bảo đảm quyền lực cho con cháu của Đảng.
Bất kỳ quốc gia nào cũng phải đổi mới cho phù hợp với sự vận động của lịch sử để đi lên. Bất cứ hành động nào cũng được hướng dẫn bởi tư tưởng. Đất nước nào cũng cần được dẫn hướng bởi một ý thức hệ. Tuy nhiên nó phải được đối chiếu với thực tế và cần phải được sửa sai, (nếu nó không phù hợp với thực tế). Nay đóng khung tư tưởng thành ý thức hệ Marx, “kiên định điều 4 hiến pháp” như khuôn vàng, thước ngọc nhằm đổ bê tông cho chiếc ghế lãnh đạo đất nước của đảng cộng sản, nhất định bắt thực tế phải đi theo tư tưởng bằng bất cứ giá nào, thì khác gì “đẽo chân cho vừa giày”. Đó cũng là quy luật, là thảm trạng của ý thức hệ Marx và những người áp dụng nó. Sự độc tôn độc tài đã gây ra quá nhiều sai lầm trong quá khứ và tạo nên sự tụt hậu của đất nước ngày nay, chưa kể nguy cơ sẽ đưa dân tộc Việt nam đến chỗ trở thành con tin của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán.

Mai Xuân Dũng